Việt Nam có tài nguyên nước thuộc loại trung bình trên thế giới, song ẩn chứa nhiều yếu tố kém bền vững. Nếu chỉ xét lượng nước trên lưu vực sông vào mùa khô thì nước ta thuộc vào vùng phải đối mặt với tình trạng thiếu nước, một số khu vực như Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên thuộc loại khan hiếm nước. Tổng trữ lượng nước mặt của Việt Nam khoảng 830-840 tỷ m3 nước ngọt, trong đó khoảng 63% lượng nước là từ nước ngoài chảy vào nước ta.
Tình trạng suy kiệt nguồn nước trong hệ thống sông, hạ lưu các hồ chứa trên cả nước và nước dưới đất ở nhiều vùng đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng nhất là trong bối cảnh Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ, sâu sắc của biến đổi khí hậu (BĐKH).
Trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa đòi hỏi nhu cầu nước cho sản xuất và sinh hoạt ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Nhu cầu dùng nước ở nước ta do tăng dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa… sẽ lên đến khoảng 130-150 tỷ m3/năm, chiếm tới gần 50% lượng nước sản sinh trên lãnh thổ nước ta, gần 90% nguồn nước mùa khô khoảng (170 tỷ m3).
Việt Nam là quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu do nước ta có bờ biển dài, nhiều khu vực có bình độ thấp. Theo tính toán dự báo của các chuyên gia, nếu mực nước biển dâng cao 1m, sẽ có khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập, trong đó, TPHCM sẽ bị ngập trên 20% diện tích, khoảng 10-20% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp.

Trong vòng 50 năm qua nhiệt độ trung bình đã tăng khoảng 0,5-0,7oC, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm. Hiện tượng El Nino, La Nina ngày càng tác động mạnh mẽ. BĐKH thực sự đã làm cho thiên tai, đặc biệt là bão, lũ và hạn hán ngày càng khốc liệt. Tác động của BĐKH đối với Việt Nam là rất nghiêm trọng, là nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030”,
Những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách để ứng phó với BĐKH, hướng tới phát triển bền vững. Các chính sách ứng phó với BĐKH chủ yếu tập trung vào mục đích thích ứng và giảm nhẹ thiên tai, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Riêng trong giai đoạn ngắn hạn thì ưu tiên vào việc tìm cách thích ứng với biến đổi khí hậu. Các chính sách pháp luật chung ứng phó với BĐKH có thể kể đến Luật bảo vệ môi trường năm 2014; Nghị quyết 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (BVMT); Chiến lược quốc gia về BĐKH; Chiến lược quốc gia về BVMT; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; …

Quang Nam