Nhằm thúc đẩy cải thiện cấp nước nông thôn, Ngân hàng Thế giới đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện Chương trình Mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn dựa trên kết quả tại 21 tỉnh Miền núi phía Bắc và Tây Nguyên – Nam Trung Bộ trong giai đoạn 2016 – 2020. Mục tiêu chính của Chương trình là tăng cường khả năng tiếp cận bền vững đối với các dịch vụ cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn, đồng thời cải thiện hoạt động lập kế hoạch, giám sát, đánh giá của các tỉnh tham gia Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trước đó.
Một trong những nội dung quan trọng của Chương trình là áp dụng và triển khai các hoạt động thông tin – giáo dục – truyền thông góp phần tăng khả năng tiếp cận với nước sạch của người dân trong quá trình phát triển số lượng đấu nối cấp nước và đảm bảo tính bền vững của việc tiếp cận dịch vụ cấp nước thông qua việc tăng tỷ lệ hộ gia đình đấu nối và sử dụng nước, thanh toán tiền nước và đóng góp xây dựng công trình.
Trước đây công tác thông tin – giáo dục – truyền thông đã được Trung tâm quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn và các tỉnh quan tâm triển khai thực hiện với nhiều hoạt động từ cấp tỉnh đến cấp xã như tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hưởng ứng Tuần lễ quốc gia Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, tổ chức tập huấn, hội nghị triển khai dự án ở các xã có công trình. Tuy nhiên, các hoạt động truyền thông chưa đạt được hiệu quả cao như mong đợi trong việc thay đổi nhận thức, hành vi cho người dân, nâng cao tỷ lệ đấu nối và mức sử dụng nước. Nguyên nhân là do công tác truyền thông còn có những hạn chế nhất định như nội dung và phương pháp truyền thông chưa thúc đẩy sự thay đổi, truyền thông chưa đến được với đối tượng đích và thiếu nguồn lực và tài chính phục vụ cho truyền thông.
Để các hoạt động truyền thông tập trung vào nâng cao tỷ lệ đấu nối, sử dụng nước, đóng góp xây dựng công trình và chi trả phí sử dụng nước, công tác thông tin - giáo dục - truyền thông được hướng dẫn thực hiện cụ thể cả về chiến lược, các hoạt động cũng như công cụ triển khai.
Về chiến lược truyền thông
Có ba giai đoạn chính trong chu trình đầu tư công trình cấp nước là chuẩn bị; triển khai; vận hành, quản lý và bảo dưỡng thì công tác thông tin – giáo dục – truyền thông được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư công trình cấp nước tập trung, bắt đầu từ lập kế hoạch, thiết kế đến chuẩn bị và xây dựng cũng như sau khi hoàn thành đưa công trình vào vận hành và cung cấp dịch vụ với nguyên tắc dành nhiều ưu tiên và nguồn lực hơn cho các hoạt động truyền thông trực tiếp ở cấp xã, thôn (bản) và hộ gia đình. Trong đó, xác định đối tượng chính của các hoạt động thông tin – giáo dục – truyền thông bao gồm tất cả các hộ gia đình trong khu vực phục vụ của công trình. Bên cạnh đó, đại diện lãnh đạo chính quyền, các ban ngành của các địa phương, các đơn vị/cơ quan đóng trên địa bàn cũng cần được truyền thông để kêu gọi sự ủng hộ trong suốt quá trình xây dựng và vận hành công trình.
Từ kết quả truyền thông trước đó tại các cộng đồng nông thôn cho thấy các thông điệp về “sử dụng nước sạch mang lại sức khỏe” đã không có tác động nhiều đến sự thay đổi trong tập quán và phong tục sử dụng nước của người dân. Để thúc đẩy sự thay đổi hành vi, chuyển từ dùng nước chưa được xử lý an toàn sang sử dụng nước máy, nước từ công trình cấp nước tập trung, các thông điệp truyền thông cần phải hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của cộng đồng, gắn lợi ích của việc sử dụng nước với nhu cầu của các hộ gia đình, tạo cảm xúc mong muốn và thôi thúc họ chuyển đổi từ sử dụng nước gia đình tự xử lý sang sử dụng nước máy, nước an toàn từ các công trình cấp nước tập trung. Vì vậy thông điệp “sử dụng nước máy là văn minh” là thông điệp được chọn làm khẩu hiệu xuyên suốt trong quá trình truyền thông tại các cộng đồng có công trình cấp nước tập trung.
Về các hoạt động truyền thông
Việc thực hiện truyền thông ở các khu vực dự án kết hợp đa dạng nhiều kênh truyền thông và hoạt động truyền thông, kể cả truyền thông trực tiếp và truyền thông gián tiếp. Bên cạnh việc xây dựng các hoạt động truyền thông thông thường, các hoạt động truyền thông để tăng cường ý thức làm chủ của cộng đồng với công trình, chia sẻ và cập nhật thông tin ngay từ ban đầu để người dân có thể tham gia vào các hoạt động của dự án, phản hồi thông tin giữa đơn vị quản lý công trình với người sử dụng cũng được áp dụng. Tùy đặc điểm của từng địa phương, các hoạt động truyền thông sẽ được xây dựng có thể bao gồm: truyền thông vận động chính sách, truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông qua các cuộc họp thôn (xóm), truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình… Tùy theo nhu cầu, đặc điểm và khả năng đạt được mục tiêu của từng địa phương, nội dung và cac hoạt động truyền thông được lựa chọn cho phù hợp với tiến độ công trình.
Đặc biệt trong giai đoạn vận hành, bảo dưỡng, theo dõi và giám sát công trình, đơn vị truyền thông hoặc tổ quản lý vận hành có thể tổ chức các cuộc tham quan công trình cấp nước cho nhân dân. Đây là cách tốt nhất để người dân có thể hiểu hơn về dây chuyền công nghệ, quá trình xử lý nước, chất lượng nước đầu ra thông qua kết quả xét nghiệm của cơ quan có thẩm quyền và sự vận hành chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên công trình cấp nước để từ đó họ tin tưởng vào chất lượng nước và lựa chọn sử dụng nước sạch.
Về công cụ phục vụ công tác truyền thông
Tùy theo tiến độ các dự án cấp nước nông thôn, trong từng giai đoạn thực hiện đầu tư công trình cấp nước, các đơn vị truyền thông sẽ lựa chọn loại công cụ phù hợp với thực tế như áp phích tuyên truyền (áp phích khuyến khích sử dụng nước sạch, áp phích vận động đấu nối và sử dụng nước máy…), bộ tranh tuyên truyền về đấu nối và sử dụng nước máy, tiểu phẩm truyền thanh, thông điệp phát trên hệ thống loa và đài truyền thanh…
Thái Nguyên là một trong 21 tỉnh tham gia thực hiện Chương trình Mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn dựa trên kết quả. Và Trung tâm Nước SH và VSMT NT với nhiệm vụ thực hiện hợp phần cấp nước cho cộng đồng dân cư thuộc Chương trình, nên việc chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác truyền thông là hết sức cần thiết. Từ hướng dẫn của Ngân hàng Thế giới và Trung tâm quốc gia NS và VSMT NT, Trung tâm đã vận dụng linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, tâm lý của nhân dân trên địa bàn tỉnh. Hoạt động truyền thông được thực hiện song song với quá trình khảo sát, chuẩn bị đầu tư, thi công đến vận hành khai thác công trình và đã đạt được những kết quả khả quan như: công trình cấp nước xã Đông Cao, thị xã Phổ Yên, số hộ dân đăng ký sử dụng tăng từ hơn 500 hộ lên hơn 1.300 hộ; công trình cấp nước xã Vạn Phái, thị xã Phổ Yên, số hộ dân đăng ký sử dụng tăng từ 300 hộ lên hơn 400 hộ; công trình cấp nước xã Tiên Phong, thị xã Phổ Yên, số hộ dân đăng ký sử dụng tăng từ hơn 1000 hộ lên 1.700 hộ; công trình cấp nước xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, số hộ dân đăng ký sử dụng tăng từ 350 hộ lên 519 hộ; công trình cấp nước liên xã Cù Vân – Hà Thượng – An khánh – Sơn Cẩm số hộ dân đăng ký sử dụng tăng từ 3.500 hộ lên 4.000 hộ… Vì vậy, Thái Nguyên được đánh giá là một trong những tỉnh đi đầu trong công tác truyền thông nhằm nâng cao tỷ lệ đấu nối, sử dụng nước, đóng góp xây dựng công trình và chi trả phí sử dụng nước.
Hải Huyền.