Chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên

Facebook   Zalo

Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn là một trong những tiêu chí quan trọng trong xây dựng nông thôn mới được các cấp, các ngành hết sức quan tâm. Bởi nước sạch và vệ sinh môi trường có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của nhân dân, góp phần làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn, vùng sâu, vùng xa và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Tuy nhiên đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc tiếp cận với nước sạch và vệ sinh môi trường còn rất nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do đồng bào thường sinh sống ở những vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn về cơ sở hạ tầng, kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí thấp và những hủ tục lạc hậu của dân tộc mình. Nhằm giảm bớt sự chênh lệch lớn về tỉ lệ người dân được cấp nước và vệ sinh giữa vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống với người dân nông thôn ở những vùng khác, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chính sách đầu tư, hỗ trợ về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi có 09 đơn vị hành chính cấp huyện (06 huyện, 02 thành phố, 01 thị xã, trong đó có 04 huyện miền núi và 01 huyện vùng cao); 180 xã, phường, thị trấn, trong đó có 124 xã, thị trấn miền núi, vùng cao, 98 xã thuộc vùng khó khăn, 62 xã, thị trấn được công nhận là xã ATK. Với tổng dân số trên 1,2 triệu người và đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 27% dân số toàn tỉnh. Trong những năm qua, việc thực hiện các chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường trên địa bàn tỉnh đã tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số nâng cao sức khỏe, cải thiện chất lượng cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Đó là:

Thực hiện Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Chương trình 134):

Sau 4 năm tổ chức triển khai thực hiện ở 53 tỉnh, thành phố trên cả nước, Chương trình 134 đã đáp ứng được niềm mong đợi của một bộ phận đồng bào dân tộc và tháo gỡ cho nhiều địa phương những khó khăn bức bách về đất sản xuất, đất ở, nhà ở nói chung và nước sinh hoạt nói riêng. Tại tỉnh Thái Nguyên, Chương trình đã hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho 3.867 hộ (360.000đ/hộ), đầu tư xây dựng 80 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung phục vụ hơn 106 xóm, bản cung cấp nước cho 7.408 hộ được sử dụng với tổng kinh phí thực hiện là 89.973,8 triệu đồng.

Thực hiện Quyết Định số 1592/QĐ-TTg ngày 12/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt đến năm 2010 cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Chương trình 1592):

Tại Thái Nguyên, năm 2012, Chương trình đã đầu tư xây dựng mới 37 công trình nước sinh hoạt tập trung cho các xóm, bản có trên 50% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số và thực sự khó khăn về nước sinh hoạt; cung cấp nước cho 3.326 hộ hưởng lợi với tổng kinh phí thực hiện là 31.092 triệu đồng.

Thực hiện Quyết định số 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn (Chương trình 755)

Từ năm 2014 đến năm 2017, Chương trình đã hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho 11.091 hộ (1.300.000 đ/hộ); đầu tư xây dựng mới 03 công trình duy tu sửa chữa 06 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên với tổng kinh phí là 18.698,5 triệu đồng.

Thực hiện Quyết định số 2085/QĐ-TTg ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 – 2020

Chính sách đặc thù này hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho hộ dân tộc thiểu số nghèo; hộ nghèo ở xã khu vực III, thôn, bản đặc biệt khó khăn sinh sống bằng nghề nông, lâm nghiệp thiếu nước sinh hoạt; chưa được hưởng các chính sách hỗ trợ về nước sinh hoạt phân tán. Theo đó, hộ dân tộc thiểu số nghèo; hộ nghèo ở xã khu vực III, thôn, bản đặc biệt khó khăn thiếu nước sinh hoạt được hỗ trợ bình quân 1,5 triệu đồng/hộ để tạo nguồn nước phục vụ sinh hoạt. Tuy nhiên, đến nay, tại tỉnh Thái Nguyên chưa bố trí được kinh phí để triển khai thực hiện Quyết định này.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình triển khai thực hiện các Chương trình, chính sách về nước sạch cho đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn một số hạn chế. Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có khoảng 220 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, trong đó có tới 139 công trình được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn của Chương trình 134, 1592 nhưng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của các công trình này chưa cao. Một trong những nguyên nhân phải kể đến đó là chủ đầu tư xây dựng các công trình này thiếu chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực cấp nước. Ngoài ra, 100% các công trình này dược giao cho do cộng đồng quản lý, công tác quản lý sau đầu tư không được chú trọng nên đa phần các công trình này đều hoạt động kém hiệu quả thậm chí ngừng hoạt động sau một thời gian ngắn.

Cùng với các chính sách, Chương trình đầu tư, hỗ trợ về nước sạch dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều Chương trình, chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường cho khu vực nông thôn nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số cũng là đối tượng thụ hưởng.

Trước hết, đó là Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn:

Sau ba giai đoạn thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tại tỉnh Thái Nguyên, đã đạt kết quả đáng khích lệ: 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 60% được sử dụng nước sạch theo Quy chuẩn 02/2009/BYT của Bộ Y tế, 65 % hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh, 65% hộ gia đình nông thôn có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh.

Tiếp theo là Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới:

Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng, trong đó nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn là một trong những tiêu chí để xây dựng nông thôn mới.

Chương trình “Mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn dựa trên kết quả”:

Nằm trong số 21 tỉnh còn nhiều khó khăn về nguồn nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường, nhất là ở những nơi vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, nên từ năm 2016, Thái Nguyên được lựa chọn để thực hiện Chương trình này. Chương trình có mục tiêu chủ yếu là cải thiện hành vi vệ sinh, tăng cường tiếp cận bền vững tới nước sạch và vệ sinh nông thôn thuộc các xã trên địa bàn, góp phần thực hiện tiêu chí số 17 về môi trường trong xây dựng nông thôn mới. Đối tượng thụ hưởng từ Chương trình chủ yếu dân cư nông thôn, phụ nữ, trẻ em khu vực có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số; học sinh các cấp, trạm y tế xã; đội ngũ cán bộ, tuyên truyền viên liên quan đến cấp nước, vệ sinh môi trường...

  Theo thống kê, đến hết năm 2017, việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới và Chương trình Mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn dựa trên kết quả đã góp phần nâng tỷ lệ người dân được sử dụng nước sinh hoạt đảm bảo vệ sinh lên 87,3%, trong đó có 65% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch theo Quy chuẩn 02/2009/BYT của Bộ Y tế; 69% hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh và 70% hộ gia đình nông thôn có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh.

Việc triển khai thực hiện các chương trình, chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng và khu vực nông thôn nói chung đã cải thiện đáng kể tình trạng cấp nước và vệ sinh môi trường ở những khu vực này. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả bền vững của các chương trình, chính sách cần huy động sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành có liên quan và đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số được hưởng lợi.

Người viết tin: Hải Huyền

Facebook Zalo