- Báo cáo đánh giá của đoàn liên ngành do Bộ NN & PTNT chủ trì, năm 2005;
- Báo cáo đánh giá của đoàn Chính phủ và các nhà tài trợ, năm 2005;
- Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện chỉ thị 200 TTg của Thủ tướng chính phủ, tháng năm 2005;
- Các báo cáo tổng kết của các chương trình mục tiêu Quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm, chương trình 135, ...
Trên cơ sở các báo cáo và đánh giá nêu trên, Bộ NN&PTNT- cơ quan chủ trì thực hiện Chương trình đã tổng hợp số liệu và thống kê tình hình thực hiện Chương trình của cả nước đến năm 2005. Báo cáo này đã được trình bày và thống nhất tại Hội nghị tổng kết thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn ngày 16/06/2005 với sự tham gia của đại diện các Bộ, ngành thực hiện Chương trình và 64 tỉnh thành trong cả nước. Dưới đây xin nêu vắn tắt một số nội dung trong báo cáo:
· Về mục tiêu cấp nước:
Đã hoàn thành mục tiêu về tỷ lệ dân cư nông thôn được cấp nước sinh hoạt.
Tổng số cư dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh tính đến cuối năm 2005 đạt gần 40 triệu người, tăng thêm 23 triệu người so với năm 1998, bình quân tăng 4,3%/năm, nâng tỷ lệ số dân cư nông thôn được cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến cuối năm 2005 lên 62%, vượt 2% so với mục tiêu đề ra của Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX. Trong đó, có 4 vùng kinh tế - sinh thái đã đạt tỷ lệ cao hơn 60%, là: Đồng bằng sông Hồng (66%), Đông Nam Bộ (68%), Đồng bằng sông Cửu Long (66%) và Bắc Trung Bộ (61%); các vùng còn lại đều đạt tỷ lệ thấp hơn 60%.
· Các tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá tỷ lệ dân cư được cấp nước là:
+Từ 20lít/người/ngày - 30lít/người/ngày: đối với vùng nhiều khó khăn về nước sinh hoạt ( vùng nhiễm mặn; vùng núi cao và vùng đá vôi castơ...)
+ Đối với các vùng khác từ 40l/người/ngày đến 50l/người/ngày.
· Về chất lượng nước:
Trong thời gian thực hiện Chương trình, Bộ Y tế đã ban hành 2 Quyết định về chất lượng nước là:
· Tiêu chuẩn về vệ sinh nước ăn uống, số 1329/2002/BYT-QĐ ngày 18/4/2002 gồm 112 chỉ tiêu, trong đó cấp độ A (tần suất kiểm tra 1 tháng/lần) là 14 chỉ tiêu, gồm 12 chỉ tiêu hoá lý và 02 chỉ tiêu vi sinh;
· Tiêu chuẩn vệ sinh nước sạch số 09/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 với 22 chỉ tiêu (Lý, Hóa là 20 chỉ tiêu và vi sinh là 02 chỉ tiêu với tần suất kiểm tra 6 tháng/lần).
Tính đến 2005, đã có 30% số dân được cấp nước sạch đạt tiêu chuẩn số 09 của Bộ Y tế bao gồm:
- Nước máy: khoảng 10%
- Nước giếng khoan có xử lý: khoảng 10%
- Giếng đào xây có xử lý: khoảng 5 %
- Khác có xử lý: khoảng 5%.
· Nước hợp vệ sinh (hay tương đối sạch): là nước giếng, nước mưa và nước ao, hồ được bảo vệ không bị ô nhiễm (có nắp đậy, có bờ che chắn). Nước này dùng tắm, rửa là chính; phải có lắng lọc, khử trùng và đun sôi mới dùng cho ăn uống được.
Tiêu chuẩn hướng dẫn các địa phương để tính toán trong lập qui hoạch là 7 chỉ tiêu chính gồm: Độ màu, mùi vị, độ PH, hàm lượng cặn không tan, hàm lượng cặn sấy khô, độ cứng (CaCo3) và sắt (Fe).
· Về vệ sinh môi trường:
Mặc dù không được phân bổ kế hoạch hàng năm cho mục tiêu này, tuy nhiên với sự nỗ lực của các cấp, các ban ngành, mục tiêu về số hộ có hố xí hợp vệ sinh đã cơ bản hoàn thành; vệ sinh môi trường nông thôn ngày càng được cải thiện; ý thức về vệ sinh của người dân nâng lên rõ rệt và đang có sự thay đổi hành vi theo hướng tích cực.
Theo tổng hợp báo cáo từ các tỉnh, số hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh đạt khoảng 6,4 triệu hộ vào cuối năm 2005, tăng hơn 3,7 triệu hộ so với khi bắt đầu thực hiện Chương trình, trung bình tăng 3,4%/năm, nâng tỷ lệ số hộ gia đình ở khu vực nông thôn có hố xí hợp vệ sinh lên 50% (Riêng về mục tiêu này sau khi Bộ Y tế có số liệu đánh giá lại trên toàn quốc theo tiêu chuẩn 08 của Bộ Y tế ban hành ngày 11/3/2005 sẽ được xem xét và điều chỉnh lại).
Số chuồng trại chăn nuôi được cải tạo và xây dựng mới đảm bảo quản lý chất thải chăn nuôi cũng tăng lên, trong đó, số chuồng trại chăn nuôi được xử lý chất thải bằng hầm Biogas đã và đang được áp dụng rộng rãi tại nhiều địa phương trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh: Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh...
Cảnh quan và môi trường nông thôn "Xanh-Sạch- Đẹp" đang xuất hiện ở nhiều làng xã; tập quán và hành vi vệ sinh cá nhân đã có nhiều chuyển biến, tiến bộ; đặc biệt là tập quán không sử dụng nhà vệ sinh hoặc sử dụng phân chưa qua xử lý để bón ruộng đã và đang được cải thiện ở nhiều vùng, nhất là ở vùng miền núi và vùng Đồng bằng sông Hồng; tình trạng sử dụng nhà tiêu ao cá ở Đồng bằng sông Cửu Long từng bước được cải thiện.
· Về cấp nước và vệ sinh cho nhà trẻ, trường học, trạm y tế và các cơ sở công cộng:
Tính đến cuối năm 2005, trong phạm vi cả nước có khoảng 70% tổng số trường học, nhà trẻ, lớp mẫu giáo; khoảng 58% tổng số Trạm xá cấp xã, khoảng 17% tổng số chợ ở khu vực nông thôn được cung cấp nước sinh hoạt và có công trình vệ sinh đủ tiêu chuẩn; 28 đồn biên phòng cùng với hơn 8 vạn dân vùng lân cận được cung cấp nước sinh hoạt. Đây là một nỗ lực rất lớn của các địa phương trong cả nước. Tuy nhiên, nếu so sánh kết quả đạt được trên đây với các mục tiêu được đề ra là: tất cả các nhà trẻ, trường học và các cơ sở giáo dục khác, các bệnh viện, trạm xá, công sở, chợ ở nông thôn có đủ nước sạch và có đủ hố xí hợp vệ sinh đã được đề ra tại Quyết định số 104/QĐ-TTg ngày 25/08/2000 thì chưa có mục tiêu nào hoàn thành.
· Về xã hội hoá
Việc thực hiện Xã hội hoá Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn này được tập trung vào 2 nội dung chủ yếu là xã hội hoá đầu tư và xã hội hoá công tác quản lý các công trình cấp nước và vệ sinh.
Xã hội hoá đầu tư:
Đã có nhiều cố gắng, thu hút được nhiều nguồn đầu tư khác nhau để thực hiện Chương trình.
Tổng mức đầu tư xã hội cho Chương trình hàng năm đều tăng lên từ 20% đến 30% và đạt khoảng 6.500 tỷ đồng tính đến hết năm 2005. Chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số vốn này là đóng góp của dân (43% - bao gồm cả 5% vay tín dụng ưu đãi), tiếp đến là ngân sách Trung ương (22%), vốn ngân sách khác (19%) và vốn quốc tế (16%).
Mặc dù chỉ mới chiếm 5% trong cơ cấu tổng các nguồn vốn, nhưng vốn tín dụng ưu đãi (Chính phủ ban hành Quyết định số 62/TTg về tín dụng thực hiện Chiến lược quốc gia cấp nước sạch & VSMT nông thôn) đã phản ánh nhu cầu thực tế về tín dụng để đầu tư cho cấp nước và vệ sinh của người dân nông thôn, đồng thời chứng tỏ chủ trương tiếp cận theo nhu cầu là đúng đắn. Hiện tại nguồn vốn này đang được thực thi thí điểm tại 10 tỉnh (Sơn La, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Khánh Hoà, Bình Thuận, Đăk Lăk, Tiền Giang và Kiên Giang) chủ yếu thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, trong thời gian tới sẽ tiến hành tổng kết đánh giá để nhân rộng ra các tỉnh còn lại. Bên cạnh đó, nhiều tỉnh cũng đã đưa ra nhiều sáng kiến và nhiều cách làm sáng tạo khác nhau để huy động vốn của nhiều thành phần kinh tế, xã hội như: tỉnh Tiền Giang, Sơn La, Nam Định, Ninh Thuận, Bình Thuận.v.v.
Về xã hội hoá quản lý:
Cả nước hiện có hàng chục mô hình quản lý công trình cấp nước tập trung khác nhau, trong đó các mô hình Hợp tác xã, Tổ hợp tác và tư nhân quản lý đang ngày càng phát triển. Được sự định hướng của Chương trình, nhiều địa phương trong cả nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khuyến khích các thành phần kinh tế khácnhau đầu tư xây dựng và quản lý, khai thác các công trình cấp nước tập trung nông thôn. Điển hình như tỉnh Tiền Giang đã ban hành 16 loại văn bản khác nhau kể từ 1998 - 2005, tạo cơ sở pháp lý để đẩy mạnh xã hội hoá cấp nước nông thôn trên địa bàn tỉnh.
I.2. Những khó khăn và thách thức
Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng trên đây nhưng thực tế việc cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn ở nước ta vẫn còn khá nhiều khó khăn và thách thức, đó là:
1. Chất lượng nước và chất lượng xây dựng các công trình cấp nước nhìn chung còn thấp, chưa đạt các yêu cầu đặt ra. Đến nay vẫn còn 38% dân số nông thôn chưa được tiếp cận với nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Trong số62% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh thì chỉ có chưa đến 30% được tiếp cận với nguồn nước đạt tiêu chuẩn ngành của Bộ Y tế. Nhiều vùng đang diễn ra tình trạng ô nhiễm nguồn nước do sự xâm nhập mặn, do chất thải chăn nuôi, chất thải làng nghề, hoá chất sử dụng trong nông nghiệp… ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt, sức khoẻ của nhân dân. Bên cạnh đó, nhiều khu vực ở các vùng đồng bằng đã phát hiện hàm lượng Asen có trong nước ngầm khá cao so với tiêu chuẩn cho phép đang là một trong những thách thức lớn đối với công nghệ xử lý và nguồn lực đầu tư.
2. Tính đồng đều trong việc cấp nước sạch ở các vùng, miền còn nhiều hạn chế. Trong khi 3 vùng sinh thái đã có số dân cư nông thôn được cấp nước sinh hoạt trên 60%, thì ở 4/7 vùng còn lại chỉ có chưa đến 50% số dân được cấp nước sinh hoạt ; nhiều vùng như: miền núi, vùng ven biển, vùng khó khăn về nguồn nước, người dân chỉ được sử dụng bình quân dưới 20 lít/ người/ ngày. Nhiều nơi tình trạng khan hiếm nước diễn ra từ 5 đến 6 tháng trong năm như Nam Trung Bộ, Tây Nguyên...
3. Tính bền vững của các thành quả đã đạt được về cấp nước chưa cao. Số lượng và chất lượng nước cung cấp ở nhiều nơi hiện đang bị giảm sút, việc giám sát và kiểm tra chất lượng nước chưa đúng quy định đặc biệt là đối với các công trình cấp nước nhỏ lẻ. Quản lý bền vững công trình cấp nước tập trung sau xây dựng còn yếu, hầu hết do kinh phí chưa đủ đảm bảo duy trì quản lý, khai thác, tu sửa dẫn đến công trình bị xuống cấp, thậm chí không tiếp tục hoạt động được. Một số công trình do tư nhân hoặc HTX nước sạch đầu tư và quản lý tuy có khá hơn nhưng cũng chỉ đảm bảo tái sản xuất giản đơn.
4. Phương pháp, công nghệ xử lý rác thải, nước thải tập trung ở nông thôn, đặc biệt là vùng làng nghề đang là vấn đề bức xúc, chưa có giải pháp hữu hiệu. Chương trình Mục tiêu Quốc gia giai đoạn 1999 – 2005 mới chỉ tập trung việc giải quyết nước sinh hoạt cho người dân mà chưa quan tâm đầy đủ đến vệ sinh môi trường, xử lý nước thải, xử lý rác thải, chất thải chuồng trại chăn nuôi và xử lý chất thải làng nghề do đó đây đang là vấn đề cản trở sự phát triển của các làng nghề và phát triển chăn nuôi ở nông thôn.
5. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên, vấn đề vệ sinh ở nông thôn vẫn chưa được chú trọng như đối với cấp nước. Tính đến nay, cả nước vẫn còn 50% số hộ gia đình chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh và đang phải sử dụng các loại nhà tiêu không hợp vệ sinh như nhà tiêu cầu, nhà tiêu đào, nhà tiêu ao cá...hiện là nguy cơ cao gây nhiễm bẩn các nguồn nước mặt phục vụ cho sinh hoạt của cộng đồng. Trong khi đó, nhận thức của các cấp chính quyền và người dân vẫn còn lệch lạc, coi trọng vấn đề cấp nước hơn vệ sinh, coi trọng việc xây dựng mới hơn là phát huy hiệu quả những công trình hiện có.
6. Tổng vốn đầu tư huy động của chương trình chưa đáp ứng được nhu cầu, cơ cấu phân bổ vốn đầu tư chưa hợp lý. Mặc dù Chương trình vẫn được ưu tiên phân bổ vốn năm sau cao hơn năm trước nhưng tổng ngân sách nhà nước cấp còn rất khiêm tốn so với nhu cầu đề ra (chỉ bằng 22% tổng toàn bộ nguồn vốn huy động được). Ngân sách nhà nước chủ yếu tập trung hỗ trợ cho các vùng khó khăn, các hộ gia đình chính sách, các hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người và chủ yếu là cho xây dựng mới các công trình, ít đầu tư cho truyền thông và đào tạo nâng cao năng lực, vận hành, duy tu, bảo dưỡng công trình.
7. Thị trường nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn chưa hình thành rõ ràng, các chính sách khuyến khích đầu tư và cơ chế tín dụng hiện có chưa thu hút được sự tham gia của các thành phần kinh tế trong xã hội, đặc biệt là khu vực tư nhân.
8. Theo báo cáo thống kê các bệnh truyền nhiễm năm 2003, 10/26 bệnh truyền nhiễm gây dịch được giám sát có tỷ lệ mắc trên 100.000 dân cao nhất theo thứ tự là cúm, tiêu chảy, sốt rét, sốt xuất huyết, lỵ trực khuẩn, quai bị, lỵ amib, HIV/AIDS, viêm gan virus, thuỷ đậu...Như vậy, khoảng một nửa các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những bệnh có liên quan tới nước sạch và VSMT. Điều này cho thấy cần phải tập trung hơn nữa cho việc cải thiện các điều kiện cấp nước và vệ sinh nhằm từng bước khống chế và giảm tỷ lệ mắc của các bệnh dịch này.
9. Các công trình cấp nước sạch và vệ sinh môi trường trong các trường học, trạm y tế và các cơ sở công cộng khác ở nông thôn mặc dù đã được quan tâm nhưng kết quả đạt được vẫn còn khá khiêm tốn so với nhu cầu thực tế. Nhiều trường học còn thiếu các công trình cấp nước và vệ sinh hoặc có nhưng không đáp ứng được nhu cầu; thêm nữa, nhiều cơ sở công cộng đang được xây dựng mới nhưng không có hạng mục xây dựng công trình cấp nước và vệ sinh.
I.3. Sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng Chương trình (giai đoạn 2006 – 2010)
i. Việc tiếp tục thực hiện Chương trình giai đoạn 2006 - 2010 là rất cần thiết để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của Chiến lược Quốc gia NS&VSNT đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 104/QĐ-TTg , ngày 25 tháng 8 năm 2000; góp phần thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) và mục tiêu phát triển của Việt Nam (VDGs) đến 2010; đồng thời góp phần thực hiện thành công Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) của Việt Nam.
ii. Bên cạnh đó, Chương trình MTQG NS&VSMTNT giai đoạn 1999 – 2005 đã thu được nhiều thành công đáng khích lệ, nhiều nội dung đang trên đà thực hiện thành công. Để phát huy hiệu quả của Chương trình và giải quyết mục tiêu Chiến lược đến 2010 như cam kết của Chính phủ với nhân dân và quốc tế, việc triển khai Chương trình mục tiêu thêm một giai đoạn nữa là cần thiết và hợp lý, được sự đồng tình của nhiều Bộ, ngành và các địa phương.
iii. Như đã đề cập ở trên, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả song hiện tại cấp nước và vệ sinh nông thôn vẫn còn rất nhiều vấn đề khó khăn, thách thức cần được tiếp tục giải quyết bởi không chỉ một Bộ, ngành. Hơn nữa, hiện nay nhiều tổ chức quốc tế đang có những cam kết hỗ trợ cho Chương trình này, nếu được Chính phủ cho phép sẽ có cơ hội và điều kiện huy động thêm được nhiều nguồn vốn quốc tế từ hợp tác song phương và đa phương.