V.1. Giải pháp về Thông tin - Giáo dục - Truyền thông và tham gia của cộng đồng
Thông tin - Giáo dục - Truyền thông (TT-GD-TT) là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt nhằm đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu của chương trình. Trong thời gian qua, giải pháp Thông tin - Giáo dục - Truyền thông đã được quan tâm, tuy nhiên việc triển khai lại không đồng đều. Những nơi thuộc khu vực dự án có tài trợ của nước ngoài thì được nhận rất nhiều các hoạt động TT- GD – TT, trong khi các vùng khác nhận được rất ít hoặc hầu như không nhận được bất kỳ hoạt động Thông tin – Giáo dục - Truyền thông nào, do đó, cần có sự quan tâm hơn nữa đến công tác này để nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác này.
a. Mục tiêu của Thông tin- Giáo dục- Truyền thông
- Tăng nhu cầu dùng nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh đối với người dân nông thôn.
- Cung cấp những thông tin cần thiết để người dân có thể tự lựa chọn loại công nghệ cấp nước và nhà tiêu phù hợp.
- Nâng cao hiểu biết của người dân về vệ sinh và mối liên quan giữa nước sạch, vệ sinh với sức khoẻ.
- Khuyến khích người dân thực hành các hành vi tốt có liên quan đến vệ sinh cá nhân, vệ sinh công cộng và vệ sinh môi trường.
- Khuyến khích người dân tự nguyện đóng góp tài chính để xây dựng công trình cấp nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh.
b. Nội dung của Thông tin- Giáo dục - Truyền thông
- Các thông tin về sức khoẻ và vệ sinh.
- Thông tin về các loại công trình cấp nước sạch và vệ sinh khác nhau, cách giám sát xây dựng, vận hành và duy tu bảo dưỡng công trình.
- Thông tin về các hệ thống hỗ trợ tài chính, hướng dẫn các thủ tục để xin trợ cấp, vay vốn.
- Cách thức tổ chức quản lý các hệ thống cấp nước tập trung.
- Các chính sách có liên quan đến cấp nước sạch và vệ sinh môi trường.
- Các điều kiện và thủ tục làm đơn xin vay vốn và trợ cấp cho việc cải thiện các công trình CN&VS.
- Thành lập hội sử dụng nước trong công tác xây dựng và quản lý công trình cấp nước tập trung.
- Phổ biến các mô hình tốt và điển hình tiên tiến về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
c. Các nguyên tắc và hoạt động chính
Lồng ghép nhiều phương pháp:
Sử dụng phương tiện truyền thông phù hợp có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là giúp cho các nhà lãnh đạo được biết về các vấn đề CN&VSNTvà khuyến khích họ ưu tiên cho lĩnh vực CN&VSNT.
Kinh nghiệm cho thấy, các hoạt động Thông tin - Giáo dục - Truyền thông cần phải tiến hành thường xuyên, liên tục và bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau.
Bao gồm: Truyền thông trực tiếp thông qua các tuyên truyền viên cấp nước và vệ sinh thôn bản, cán bộ y tế thôn và các ban, ngành, đoàn thể chính trị xã hội xã; Phân phát tài liệu; Các sự kiện đặc biệt như các ngày phát động, biểu diễn ca nhạc, thi, đóng kịch; Sử dụng truyền thông đại chúng, bao gồm các chương trình Ti Vi và Radio, loa phóng thanh thôn, các bài báo, tạp chí...
Truyền thông trực tiếp tại cấp thôn, bản: đóng vai trò quan trọng trong công tác Thông tin – Giáo dục - Truyền thông. Vì thế, cần thiết lập đội ngũ tuyên truyền viên về nước sạch và vệ sinh tại các thôn, bản; đồng thời tập trung tập huấn cho họ các nội dung cũng như kỹ năng truyền thông nhằm giúp họ thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động tại cộng đồng. Nên bổ sung thêm các phương tiện truyền thông khác kể cả thông qua các sự kiện đặc biệt như các buổi diễn ca nhạc, các cuộc thi, đóng kịch. Nên tập trung không những nâng cao dân trí mà cần chú trọng vào việc cải thiện hành vi vệ sinh của họ.
Các ấn phẩm: Phát triển tài liệu truyền thông cho các đối tượng khác nhau phù hợp với các giá trị, thái độ, niềm tin, lối sống, trình độ học vấn, lứa tuổi…Cần ưu tiên cung cấp cho các tuyên truyền viên tuyến cơ sở đầy đủ thông tin và các tài liệu thích hợp với chất lượng tốt, có thể sử dụng lâu dài. Nên có nhiều sản phẩm nghe nhìn cho trẻ em hay nhân dân các vùng có trình độ dân trí thấp.
Truyền thông đại chúng: Các phương tiện thông tin địa chúng như Báo, đài, Tivi… nên được chú trọng sử dụng tại cấp quốc gia. Đồng thời, có kế hoạch hỗ trợ, đào tạo nâng cao nhận thức của đội ngũ phóng viên viết về lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường.
Tiếp thị xã hội: hoạt động này có ưu điểm và sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nhu cầu xây dựng và sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, thực hành các hành vi vệ sinh đặc biệt là hành vi rửa tay bằng xà phòng và nước sạch của người dân.
Lồng ghép các nội dung, tập trung vào truyền thông thay đổi hành vi:
Nguyên tắc lồng ghép tạo điều kiện cho người dân cùng một lúc có thể tiếp cận được với nhiều loại thông tin mà họ cần, trên cơ sở đó giúp họ đưa ra được quyết định hợp lý nhất. Hoạt động Thông tin – Giáo dục - Truyền thông phải được lồng ghép chặt chẽ vào các hoạt động khác như tài chính, kỹ thuật và thể chế. Bên cạnh đó, cần tập trung vào việc nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của người dân đối với việc sử dụng nước sạch, bảo vệ môi trường, nguồn nước, giữ gìn vệ sinh công cộng và vệ sinh cá nhân.
Mở rộng giáo dục sức khoẻ dưới hình thức giải trí cho trẻ em:
Trọng tâm của việc giáo dục sức khoẻ cho trẻ em là tổ chức các hoạt động xã hội hay ngoại khoá như thi viết, vẽ, sáng tác, kể chuyện, biểu diễn văn nghệ, trò chơi…trong các chiến dịch truyền thông hàng năm hay trong các hoạt động ngoại khoá thường xuyên. Giáo viên cần được đào tạo và khuyến khích sử dụng phương pháp giáo dục tích cực lấy học viên làm trung tâm, đồng thời sử dụng tài liệu nghe nhìn hỗ trợ.
Xem xét sự khác biệt và tập trung vào các khu vực khó khăn:
Những đặc thù về tập quán, truyền thống, văn hoá, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, tôn giáo, giới tính… cần phải được xét đến khi lập kế hoạch và thực thi các hoạt động Thông tin - Giáo dục - Truyền thông.Đặc biệt làlưu ý đến người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em vì họ thường ít được tiếp cận với các nguồn thông tin.
Sự tham gia của nhiều ngành vào công tác Thông tin- Giáo dục - Truyền thông:
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, để làm cho các hoạt động Thông tin – Giáo dục - Truyền thông có hiệu quả thì sự tham gia của các ngành, các cấp khác nhau đóng vai trò rất quan trọng. Do đó, hoạt động Thông tin – Giáo dục - Truyền thông của Chương trình sẽ có sự tham gia của các Bộ và các ngành chủ chốt sau: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, các cơ quan thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương.
Để đảm bảo có sự tham gia tích cực của các ban, ngành và tăng cường sự phối hợp chặt chẽ trong việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện để thống nhất trong các thông điệp, tránh sự chồng chéo, lãng phí về nguồn lực cần thiết lập các nhóm công tác về Thông tin – Giáo dục - Truyền thông tại các cấp. Cơ quan thường trực Chương trình ở các cấp sẽ đồng thời đóng vai trò là điều phối nhóm Thông tin - Giáo dục - Truyền thông ở cấp mình.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức quốc tế, các tổ chức Phi chính phủ và các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động Thông tin - Giáo dục - Truyền thông về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
Thông tin- Giáo dục - Truyền thông phải được thực hiện ở tất cả các cấp:
Nhằm huy động sự hưởng ứng và tham gia của các đối tượng khác nhau như: cán bộ quản lý, cán bộ lập kế hoạch, kỹ thuật, người sử dụng…
Đảm bảo đủ nguồn lực để thực hiện:
Trong thời gian qua, việc đầu tư cho hoạt động TT-GD-TT còn rất hạn chế, mức đầu tư cho TT-GD-TT bằng nguồn ngân sách chỉ chiếm chưa đến 3%. Tuy nhiên, báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình của các điạ phương cho thấy nhờ làm tốt công tác TT-GD-TT nên mức huy động đóng góp của nhân dân cho các công trình cấp nước và vệ sinh đã tăng một cách rõ rệt. Hơn nữa hoạt động TT-GD-TT không thể để thị trường điều tiết mà phải có sự định hướng và điều phối của nhà nước. Do đó, cần bố trí đủ nhân lực và kinh phí cho hoạt động này.
d. Sự tham gia của cộng đồng
Sự tham gia của công đồng chính là điều kiện tiên quyết để thực hiện Chương trình một cách hiệu quả và bền vững Chương trình. Vì vậy, cộng đồng phải được tham gia thích đáng vào tất cả các giai đoạn của chu trình dự án, từ việc xác định đầu tư, lựa chọn kỹ thuật, đóng góp về mặt tài chính và các loại hình đóng góp khác, giám sát xây dựng và quản lý công trình sau xây dựng.
Cộng đồng phải phát huy quyền làm chủ và hiểu rõ rằng việc cải thiện điều kiện cấp nước và vệ sinh cũng như công tác duy tu bảo trì công trình là trách nhiệm của cộng đồng.
Việc thực hiện Chương trình phải gắn liền với việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, khuyến khích tổ chức những cuộc họp thôn/ bản để xác định những ưu tiên của địa phương và quyết định các vấn đề có liên quan đến nước sạch và vệ sinh môi trường.
Đảm bảo có sự cân bằng về giới để phụ nữ được tham gia vào việc ra quyết định trong tất cả các khía cạnh của cấp nước, vệ sinh… Nhà nước khuyến khích phụ nữ chiếm một nửa trong các ban, nhóm sử dụng nước hoặc quản lý cấp nước và vệ sinh.
Cơ quan được giao quản lý Chương trình cần lập một chương trình khen thưởng để khuyến khích các địa phương, cộng đồng làm tốt công tác cấp nước và vệ sinh, khuyến khích các địa phương làm chủ về đầu tư cấp nước và vệ sinh nông thôn.
Trong quá trình thực hiện Chương trình, dựa trên các nguyên tắc của Chiến lược Quốc gia nước sạch và vệ sinh nông thôn, các tài liệu hiện có, các bài học kinh nghiệm được rút ra trong những năm qua Chính phủ cần sớm tiến hành cập nhật và mô tả chi tiết các hướng dẫn về lập kế hoạch có sự tham gia, lựa chọn công nghệ cấp nước và vệ sinh, các mô hình quản lý cấp nước tập trung và vệ sinh nông thôn bền vững để hỗ trợ các địa phương trong công tác triển khai thực hiện Chương trình.
V.2. Giải pháp về Tài chính
Trong những năm qua, mặc dù đã thu được nhiều kết quả quan trọng trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư, song mức huy động vốn để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn còn thấp, tổng số vốn huy động được trong giai đoạn 1999 – 2005 chỉ đạt 40% so với dự kiến nhu cầu. Ngoài ra, cơ cấu huy động vốn còn chưa thật sự hợp lý, cơ cấu phân bổ vốn đầu tư chưa phù hợp với nhu cầu đầu tư thực tế cho từng vùng; cơ chế giao kinh phí cho từng mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình chưa cụ thể, định mức chế độ chi tiêu chưa hợp lý, nhiều mức chi còn thấp, việc phân cấp quản lý tài chính còn chưa rõ ràng; cách tiếp cận mục tiêu của chương trình tập trung nhiều vào các hoạt động xây dựng mà chưa xác định và hỗ trợ tài chính cho các hoạt động khác được đề cập trong chiến lược như Thông tin – Giáo dục - Truyền thông, đào tạo nâng cao năng lực... Trong đầu tư cho xây dựng thì phần lớn là ưu tiên cho cấp nước, ít đầu tư cho vệ sinh. Chính vì thế, trong giai đoạn 2006 – 2010 cần thiết phải đổi mới cơ chế tài chính, bao gồm cả cơ chế huy động, quản lý và đầu tư trên cơ sở phát huy những bài học kinh nghiệm đã thu được từ giai đoạn 1999 – 2005 và khắc phục những tồn tại, yếu kém nêu trên đây.
V.2. 1.Kinh phí thực hiện
Tổng kinh phí dự kiến cần thiết để đảm bảo đạt được các mục tiêu của Chương trình là: 22.600.000 triệu đồng, trong đó:
+ Vốn đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình cấp nước: 9.000 tỷ đồng, khoảng 40%;
+ Vốn đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình vệ sinh nông thôn (nhà tiêu hộ gia đình, nhà tiêu trường học, nhà tiêu cho các trạm y tế xã, nhà tiêu cho chợ nông thôn, nhà tiêu cho trụ sở uỷ ban nhân dân xã): 4.800 tỷ đồng, khoảng 21%;
+ Vốn đầu tư cho cải tạo, xây dựng công trình xử lý chất thải chăn nuôi: 6.800 tỷ đồng, khoảng 30%;
+ Các chi phí chung bao gồm: khảo sát, quy hoạch, truyền thông, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, quản lý và giám sát… 2.000 tỷ đồng, khoảng 9%.
Nhà nước sẽ không trợ cấp cho cho việc xây dựng các công trình xử lý chất thải làng nghề và xử lý chất thải chăn nuôi mà chỉ hỗ trợ xây dựng các mô hình thí điểm và các chương trình Thông tin - Giáo dục - Truyền thông nâng cao nhận thức về lĩnh vực này.
Cơ cấu nguồn kinh phí đầu tư cho Chương trình dự kiến như sau:
- Ngân sách TW: 3.200 tỷ đồng, khoảng 14%
- Ngân sách địa phương: 2.300 tỷ đồng, khoảng 10%
- Quốc tế: 3.400 tỷ đồng, khoảng 15%
- Dân đóng góp: 8.100 tỷ đồng, khoảng 36%
- Tín dụng ưu đãi: 5.600 tỷ đồng, khoảng 25%
V.2.2. Phương thức huy động vốn
Để huy động được số tiền như dự kiến trên, phương thức huy động vốn của Chương trình sẽ là:
- Đổi mới giải pháp huy động nguồn tài chính của cộng đồng bằng cách lấy xã hội hoá nguồn lực tài chính làm trọng tâm: vận động và tổ chức, tạo cơ sở pháp lý để khuyến khích sự tham gia của nhân dân, của các thành phần kinh tế và toàn xã hội đầu tư vào cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; phát huy nội lực, người sử dụng đóng góp một phần chi phí xây dựng công trình và toàn bộ chi phí vận hành, duy tu bảo dưỡng và quản lý công trình; đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút thêm vốn cho chương trình.
- Mở rộng thị trường nước sạch và vệ sinh thông qua vốn vay ưu đãi của nhà nước và quốc tế cho các vùng kinh tế phát triển và các vùng đồng bằng, giảm dần vốn ngân sách cho các vùng này để tập trung ưu tiên cho các vùng miền núi, vùng khó khăn và các vùng thường xuyên bị thiên tai.
Vốn ngân sách nhà nước:
Mặc dù đã có sự tăng lên đáng kể nhưng vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho Chương trình NS&VSMTNT trong thời gian qua chưa đáp ứng yêu cầu, do đó nhà nước cần tiếp tục tăng thêm vốn ngân sách cho cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn một cách thoả đáng trong giai đoạn 2006-2010 tương xứng với vị trí của nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Vốn ngân sách nhà nước cần thiết có sự lồng ghép phối hợp với các dự án khác của chương trình MTQG ngay từ khi thẩm định và trình duyệt.
Vốn của dân và vốn của các doanh nghịêp, các thành phần kinh tế khác
Vốn của dân sẽ được huy động thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động Thông tin – Giáo dục - Truyền thông. Các hộ gia đình đóng góp một phần thu nhập của mình đầu tư cho công trình cấp nước và vệ sinh dưới các hình thức xây riêng cho từng hộ, cho nhóm hộ hay xây dựng hệ thống cấp nước tập trung cho cả thôn, xã. Người sử dụng dùng khoản tiết kiệm từ thu nhập của mình để chi trả ít nhất là 25-30% và được vay từ 70-75% chi phí xây dựng các công trình trong thời hạn từ 3 đến 5 năm.
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác, của tư nhân sẽ được chú trọng huy động thông qua việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách động viên đóng góp từ các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, khơi dậy nguồn vốn từ nội lực của nền kinh tế; khuyến khích khu vực tư nhân và các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư xây dựng công trình cấp nước tập trung bằng các chính sách ưu đãi như chính sách về đất đai, giảm thuế, miễn thuế, vay tín dụng…
Việc phát huy nội lực, khơi dậy các tiềm năng, khuyến khích và thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân, các doanh nghịêp, tổ chức xã hội và nhân dân phát triển cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn đồng thời gắn liền với việc tăng cường quản lý nhà nước đối với cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn.
Vốn vay tín dụng ưu đãi
Dự kiến nguồn vốn tín dụng cho chương trình là 5600 tỷ đồng. Để đạt được kế hoạch này, nhà nước cần tăng thêm nguồn vốn cho tín dụng, bao gồm cả vốn vay quốc tế đồng thời nhanh chóng mở rộng Quỹ tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình và Chiến lược cấp nước và vệ sinh nông thôn của Chính phủ theo Quyết định số 62QĐ-TTg 2004 ra tất cả các tỉnh trong toàn quốc.
Vốn viện trợ quốc tế
Nguồn vốn viện trợ quốc tế cần huy động là 3400 tỷ đồng. Nguồn vốn này sẽ được huy động thông qua các hình thức hợp tác đa phương, song phương, vốn tài trợ không hoàn lại, vốn vay tín dụng, kể cả vốn đầu tư kinh doanh nước sạch nông thôn theo hình thức công ty liên doanh…
Hỗ trợ tài chính của quốc tế cho các công trình cấp nước và vệ sinh môi trường cũng có thể thực hiện theo các hình thức: đóng góp chung cho quỹ trợ cấp và quỹ tín dụng, trợ cấp cho các dự án hoặc một khu vực.
Vốn viện trợ quốc tế cho chương trình phải được kế hoạch hoá ngay từ khâu thẩm định, phê duyệt và thể hiện trong kế hoạch hàng năm.
Nguồn vốn hỗ trợ của các nhà tài trợ dự kiến gồm: Ngân hàng thế giới (WB): 730 tỷ đồng; Ngân hàng phát triển Châu á (ADB): 300 tỷ đồng; UNICEf: 491 tỷ đồng; DANIDA và AusAID 1500 tỷ đồng; JICA: 330 tỷ đồng…
Hợp tác quốc tế cần được thực hiện ở nhiều lĩnh vực như: hợp tác kỹ thuật, viện trợ xây dựng công trình bằng nguồn vốn vay và vốn không hoàn lại, nâng cao năng lực, thể chế, hỗ trợ theo dự án, hỗ trợ cho hộ nghèo, vùng nghèo…
V.2.3.Phương thức lập kế hoạch vốn của chương trình
Phương thức lập kế hoạch vốn của Chương trình sẽ tuân theo các quy định hiện hành của Chính phủ quy định đối với các Chương trình mục tiêu Quốc gia và tuân thủ Luật ngân sách nhà nước. Cụ thể là :
- Tất cả kế hoạch vốn được thông báo cho Ban chủ nhiệm chương trình ngay từ đầu năm, có phân bổ rõ thành cấu phần vốn sự nghiệp và cấu phần vốn đầu tư XDCB.
- Ban chủ nhiệm chương trình quyết định phân bổ vốn theo các mục tiêu công việc của chương trình cho các Bộ, ban ngành ở trung ương và địa phương.
+ Đối với các Bộ, cơ quan ngang bộ ở cấp Trung ương: Căn cứ vào kinh phí của Chương trình được Thủ tướng Chính phủ giao, các Bộ, cơ quan ở Trung ương sẽ phân bổ giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc phù hợp với mục tiêu, nội dung của Chương trình gửi Bộ Tài chính theo quy định để làm căn cứ cấp phát kinh phí.
+ Đối với các địa phương: Căn cứ tổng kinh phí của tất cả các chương trình MTQG được Chính phủ giao cho địa phương, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhịêm chủ động lồng ghép các chương trình mục tiêu trên địa bàn tỉnh, bố trí mức kinh phí thoả đáng cho Chương trình MTQG NS&VSMTNT trên địa bàn tỉnh, thành phố đề đạt được mục tiêu.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (cơ quan quản lý chương trình) có trách nhiệm lập kế hoạch về nhiệm vụ, mục tiêu và nhu cầu kinh phí, đề xuất các giải pháp để thực hiện chương trình gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tổng hợp trình Chính phủ. Căn cứ tổng mức kinh phí của chương trình được cấp có thẩm quyền thông báo, cơ quan quản lý chương trình chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính dự kiến phân bổ kinh phí của chương trình cho các Bộ, cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
V.2.4. Cơ chế cấp phát và , thanh quyết toán của Chương trình
Kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia được cân đối trong dự toán chi Ngân sách Trung ương do Bộ Tài chính cấp cho các Bộ, cơ quan ngang bộ ở Trung ương để thực hiện nhiệm vụ của Chương trình do Trung ương quản lý và cấp bổ sung có mục tiêu cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình.
Việc phân bổ vốn hàng năm sẽ được tính trên cơ sở các tiêu chí phân bổ dựa vào mục tiêu nhiệm vụ của Chương trình hàng năm.
Việc quản lý, quyết toán kinh phí chi cho Chương trình được thực hiện theo Luật ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn hiện hành.
V.2.4.1. Vốn ngân sách nhà nước
- Căn cứ vào thông báo kinh phí của chương trình, Bộ Tài chính tiến hành phân bổ vốn ngân sách và thông báo kinh phí phân bổ đến Kho bạc nhà nước và Sở Tài chính. Kho bạc nhà nước Trung ương căn cứ vào phân bổ vốn của Bộ Tài chính để chuyển tiền về Kho bạc tỉnh. Kho bạc tỉnh căn cứ vào phân bổ vốn của Sở Tài chính để chuyển tiền đến Kho bạc huyện. Kho bạc huyện cấp phát cho đối tượng thụ hưởng của chương trình trên cơ sở phân bổ vốn của Phòng Tài chính huyện và danh sách đối tượng thụ hưởng của chương trình đã được UBND huyện phê duyệt.
- Cơ quan tài chính các cấp ở địa phương thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách của cơ quan cùng cấp và quyết toán ngân sách cấp dưới, tổng hợp, quyết toán ngân sách địa phương trình UBND cùng cấp, báo cáo cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
- Kiểm soát và thanh toán phần vốn ngân sách nhà nước qua hệ thống kho bạc nhà nước được quy định cụ thể tại Thông tư 79/2003/TT-BTC ngày 13/8/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước
V.2.4.2. Vốn tín dụng trong nước
Được giải ngân theo quy trình cho vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội đã ban hành.
V.2.4.3. Vốn vay và vốn viện trợ nước ngoài (ODA)
Việc giải ngân, thanh quyết toán đối với vốn việc trợ Quốc tế cho Chương trình sẽ được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau dựa trên sự thoả thuận của từng nhà tài trợ và Chính phủ phù hợp với các quy định hiện hành. Nhà nước khuyến khích các tổ chức quốc tế tài trợ thông qua kênh ngân sách nhà nước (Hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu) và sẽ thực hiện theo cơ chế quản lý vốn và hệ thống điều hành hiện tại của Chính phủ như được mô tả ở phần V.2.4.1 và mục a sau đây. Trong trường hợp này sẽ có thể sử dụng kiểm toán viên độc lập bên ngoài để kiểm toán Chương trình theo quy định của Chính phủ tại Điều 73, Nghị định 60NĐ-TTg.
Ngoài ra có thể áp dụng một trong 2 phương án đề xuất đối với vốn vay và vốn viện trợ nước ngoài cho Chương trình trong giai đoạn 2006 – 2010 như mục b và c của phần này.
a. Phương án 1: Hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu :
Chương trình hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu là mô hình hỗ trợ và sử dụng vốn ODA trực tiếp bổ sung vào ngân sách không qua cơ chế dự án, không cần bộ máy quản lý riêng. Chương trình hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu sẽ hỗ trợ ngân sách cho các hoạt động đã được Chính phủ Việt Nam xác định trong Chương trình mục tiêu quốc gia và được giải ngân và giám sát quản lý theo cơ chế của Luật Ngân sách và Chương trình mục tiêu quốc gia. Mục tiêu của Chương trình hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu đồng thời cũng là các mục tiêu của Chương trình mục tiêu Quốc gia đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt
Việc giải ngân của Chương trình hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu dự kiến sẽ diễn ra nhanh chóng theo tiến độ đã được thỏa thuận trên nguyên tắc nguồn vốn ODA được hoà vào nguồn ngân sách và sẽ được chuyển trực tiếp cho Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Chương trình hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu tạo điều kiện để hoà nhập sự hỗ trợ ODA với những nỗ lực của Chính phủ để đạt tới cùng mục tiêu.
Chương trình hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu sẽ được thực hiện dựa trên cơ chế Chương trình mục tiêu quốc gia thay đổi trong phân bổ kinh phí, giám sát và đánh giá trên cơ sở thực hiện việc phân cấp quản lý. Cơ chế báo cáo dựa vào quy trình và thủ tục thông thường của Chính phủ.
- Cơ chế giải ngân vốn không hoàn lại và vốn vay nước ngoài
Hiệp định tín dụng sẽ được đàm phán giữa nhà tài trợ và ngân hàng Nhà nước Việt nam theo thủ tục yêu cầu của mỗi bên. Mỗi nhà tài trợ sẽ ký một hiệp định tài chính với Bộ Tài chính theo thủ tục yêu cầu của các bên. Nội dung chính của các hiệp định tín dụng và các hiệp định tài chính sẽ là giống nhau đối với Chương trình đề xuất.
Việc giải ngân của vốn viện trợ được thực hiện theo cơ chế chuyển trực tiếp vốn ODA vào ngân sách Nhà nước để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn hướng tới đạt mục tiêu của chương trình.
Việc giải ngân sẽ tiến hành theo từng năm và kết quả thực hiện của năm trước là căn cứ để giải ngân cho năm tiếp theo.
Khi dự án viện trợ được ký kết và phê duyệt xong, các thủ tục và các điều kiện cần thiết đã được hoàn tất cho việc giải ngân, vốn vịên trợ được chuyển vào Kho bạc Nhà nước Trung ương theo kế hoạch hàng năm đã được duyệt giữa Chính phủ và nhà tài trợ, theo lệnh của Ban chủ nhiệm Chương trình và thông tin phản hồi từ địa phương (Nội dung, mục tiêu chi của Chương trình), Bộ Tài chính (Vụ Ngân sách Nhà nước) làm thủ tục lệnh chi theo kế hoạch, Kho bạc Nhà nước Trung ương tiến hành chuyển vốn viện trợ vào Tài khoản Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố để thực hiện giải ngân tới đơn vị thụ hưởng trực tiếp.
- Báo cáo quyết toán vốn viện trợ
Nguồn vốn viện trợ của Chương trình hỗ trợ ngân sách theo mục tiêu sẽ được quản lý, quyết toán theo quy định tài chính của Luật Ngân sách Nhà nước và các quy định hiện hành. Điều này cho phép các cán bộ và cấp quản lý có thể quản lý chương trình một cách có hiệu quả. Phương pháp này đánh dấu sự chuyển đổi từ cơ chế hỗ trợ kiểu dự án sang phương thức hỗ trợ trực tiếp vào ngân sách theo những mục tiêu cụ thể.
Kho bạc Nhà nước cần lập các báo cáo tài chính trong năm và chi tiết cho Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, tỉnh và huyện cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ các nguồn vốn bổ sung một cách minh bạch và quản lý mức chi tiêu cũng như tổng chi tiêu.
Hàng năm các tỉnh phải nộp báo cáo lên Ban chỉ nhiệm Chương trình về tình hình thực hiện theo mẫu quy định, các báo cáo này là cơ sở phân bổ kinh phí theo kế hoạch cho tỉnh vào năm tiếp theo.
b. Phương án 2 :
Hàng năm, căn cứ hướng dẫn lập dự toán Ngân sách nhà nước của Bộ Tài chính và các văn bản cam kết, các thoả thuận, các Hiệp định viện trợ hoặc vốn vay do Thủ tướng Chính phủ ký kết với các nhà tài trợ, kế hoạch triển khai dự án hoặc thông báo phân phối viện trợ của cơ quan chủ quản cho đơn vị các đơn vị chủ đầu tư lập dự toán thu, chi về viện trợ và vốn đối ứng gửi về cơ quan chủ quản dự án. (Xem mô hình minh hoạ sau)
- Nguyên tắc giải ngân
- Nhà tài trợ và Chính phủ Việt nam thông báo dự án tài trợ của mình dưới các dạng:
+ Hiệp định tài trợ, văn kiện cam kết tài trợ hoặc kế hoạch triển khai dự án, thông báo phân phối dự án được cấp có thẩm quyền duyệt trong các Hiệp định tài trợ. Về nguyên tắc phải quy định rõ cơ cấu vốn tài trợ cho Chương trình NS&VSNT, trong đó chia ra vốn đầu tư và vốn sự nghịêp, quy định tổ chức quản lý dự án, cơ chế giải ngân của nguồn vốn.
+ Tất cả các hoạt động chi tiêu phải có dự toán cụ thể và căn cứ vào các khoản mục đã được cơ quan tài trợ chấp thuận, chi tiêu đúng đối tượng, đúng mục đích và không được chi vượt mức đã thoả thuận với nước ngoài.
- Phương thức giải ngân
Khi dự án viện trợ được ký kết và phê duyệt xong, cơ quan chủ quản chương trình, cơ quan chủ dự án có trách nhiệm khẩn trương hoàn tất các điều kiện và thủ tục cần thiết cho việc giải ngân vốn viện trợ – nếu việc giải ngân qua một ngân hàng phục vụ thì việc lựa chọn ngân hàng được uỷ quyền rút vốn sẽ do Bộ Tài chính quyết định. Ngân hàng phục vụ được Bộ Tài chính uỷ quyền làm dịch vụ rút vốn viện trợ và được hưởng phí theo quy định hiện hành do chủ đầu tư thanh toán bằng nguồn vốn đối ứng trong nước hoặc theo thoả thuận của nhà tài trợ.
+ Thủ trưởng các đơn vị nhận viện trợ phải chịu trách nhiệm làm thủ tục xác nhận viện trợ theo các quy định hiện hành.
+ Căn cứ tổng số vốn viện trợ của các nhà tài trợ đã xác định và thông báo mức phân bổ cho từng địa phương. Một phần vốn của nhà tài trợ sẽ thông qua ngân hàng phục vụ TW để chuyển vốn cho BQL dự án TW để thực hiện các công việc của BQL dự án TW như: tuyên truyền, hội nghị, hội thảo, chi quản lý văn phòng. Phần còn lại sẽ được phân bổ vốn trực tiếp cho BQL dự án tỉnh thông qua Ngân hàng phục vụ ở tỉnh. Ngân hàng phục vụ tỉnh căn cứ vào các điều kiện đã được đảm bảo của BQL dự án tỉnh để cấp thanh toán cho các chủ đầu tư, chủ dự án, chủ hộ theo đúng quy định hiện hành.
+ Năm thứ nhất của dự án, Ban quản lý dự án tỉnh xây dựng kế hoạch năm gửi nhà tài trợ và có văn bản thông báo cho BQL dự án TW. Sau khi xem xét, nhà tài trợ chấp thuận và trả lời bằng văn bản tới Ban quản lý dự án tỉnh. Từ năm thứ hai trở đi, kế hoạch của các Ban quản lý dự án tỉnh sẽ do nhóm đánh giá kỹ thuật xem xét và góp ý. Dựa trên góp ý của nhóm đánh giá kỹ thuật, Ban quản lý dự án tỉnh sẽ chỉnh sửa lại bản kế hoạch và gửi lại nhà tài trợ và BQL dự án TW.
- Hình thức giải ngân
Hình thức rút vốn thanh toán từ tài khoản viện trợ và từ tài khoản đặc biệt, dự án được thực hiện theo quy định hiện hành của Chính phủ và tuân thủ các nguyên tắc giải ngân của nhà tài trợ.
Các nội dung chi được tài trợ 100% bởi nhà tài trợ không thực hiện kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước cùng cấp.
Tuỳ theo yêu cầu và tính chất của các lần thanh toán Ban quản lý dự án trung ương có thể áp dụng các hình thức rút vốn: Rút vốn thanh toán qua tài khoản đặc biệt, thanh toán trực tiếp qua tài khoản viện trợ, thủ tục hoàn vốn, thư cam kết. Riêng Ban quản lý dự án tỉnh chỉ thanh toán qua tài khoản đặc biệt và thanh toán theo thủ tục hoàn vốn (nếu có).
- Giải ngân vốn viện trợ cho các Ban quản lý dự án tỉnh
Nhà tài trợ chuyển vốn cho Ban quản lý dự án tỉnh phải tuân thủ các quy định trong Hiệp định viện trợ và các quy định hiện hành của Chính phủ Việt Nam.
- Thực hiện kiểm soát chi đối với dự án viện trợ
+Các khoản chi tiêu (tại Ban quản lý dự án các cấp) có tỷ lệ góp vốn đối ứng của Chính phủ đều phải được thực hiện kiểm soát chi.
+Quy trình kiểm soát chi được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Đối với Ban quản lý dự án trung ương:
Thực hiện tất cả các hình thức rút vốn áp dụng cho chương trình. Gồm các chi trả trực tiếp từ tài khoản viện trợ các đợt rút vốn bổ sung vào tài khoản đặc biệt và các hình thức khác (nếu có) được nhà tài trợ chấp thuận (cam kết đặc biệt, thư tín dụng…). Đồng thời, Ban quản lý dự án trung ương có trách nhiệm hướng dẫn, giám sát các hoạt động quản lý tài chính tại các Ban quản lý dự án tỉnh.
Đối với các Ban quản lý dự án tỉnh:
Thực hiện các hoạt động trong kế hoạch được Nhà tài trợ chấp thuận và Ban chỉ đạo chương trình của tỉnh, thành phố phê duyệt. Chịu trách nhiệm về đề nghị chuyển vốn bổ sung và hoạt động chi tiêu tại Ban quản lý dự án tỉnh. Chịu trách nhiệm về lưu giữ hồ sơ tài liệu theo quy định của Luật kế toán và nhà tài trợ. Ban quản lý dự án tỉnh có trách nhiệm cung cấp tất cả các tài liệu được nhà tài trợ và các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.
Ban quản lý dự án tỉnh có trách nhiệm giám sát, kiểm tra việc triển khai các hoạt động của các đơn vị tham gia chương trình trong phạm vi phụ trách để đảm bảo các hoạt động của dự án được triển khai đúng mục đích và có hiệu quả.
- Mở tài khoản đối với vốn viện trợ, vốn đối ứng
Ban quản lý dự án Trung ương được mở các tài khoản sau:
Tài khoản đặc biệt: Ban quản lý dự án trung ương được mở 01 tài khoản đặc biệt bằng ngoại tệ (USD) mang tên Dự án Ngân hàng phục vụ để tiếp nhận nguồn viện trợ không hoàn lại của nhà tài trợ.
Tài khoản tiền gửi: Ban quản lý dự án Trung ương được mở 02 tài khoản tiền gửi Ngân hàng thương mại, trong đó: Một tài khoản tiền gửi USD và một tài khoản tiền gửi VND để gửi vào những khoản thu tại dự án như tiền bán hồ sơ thầu, tiền bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng và các khoản thu vãng lai khác.
Tài khoản dự toán: Ban quản lý dự án trung ương được mở một tài khoản dự toán tại Kho bạc Nhà nước để tiếp nhận vốn đối ứng do Ngân sách TW cấp cho các hoạt động của dự án.
- Ban quản lý dự án tỉnh được mở các tài khoản sau:
Tài khoản đặc biệt tại tuyến tỉnh: Tại Ngân hàng phục vụ tỉnh, Ban quản lý dự án tỉnh được mở 01 tài khoản đặc biệt (VND) để tiếp nhận nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nhà tài trợ chuyển đến theo kế hoạch tài chính được duyệt .
Tài khoản tiền gửi: Tại Ngân hàng thương mại, Ban quản lý dự án tỉnh được mở một tài khoản tiền gửi (VND) để gửi vào những khoản thu tại dự án như: Tiền bán hồ sơ thầu, tiền bảo lãnh thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, tiền đóng góp của người được hưởng lợi (nếu có)…
Tài khoản dự toán: Tại Kho bạc nhà nước tỉnh, Ban quản lý dự án tỉnh được mở 01 tài khoản dự toán vốn ngân sách để thực hiện việc thanh toán vốn đối ứng.
Chế độ báo cáo, kiểm tra, quyết toán vốn viện trợ
Chế độ báo cáo: Hàng quý và cả năm, thủ trưởng các đơn vị trực tiếp sử dụng viện trợ phải lập báo cáo tình hình tiếp nhận và sử dụng viện trợ gửi cơ quan chủ quản dự án nơi tiếp nhận viện trợ.
Chế độ kiểm tra: Cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra và hướng dẫn các chế độ quản lý viện trợ.
Chế độ quyết toán: Hàng năm, khi kết thúc dự án, chủ dự án sử dụng viện trợ báo cáo quyết toán và gửi cho cơ quan chủ quản dự án theo quy định của Bộ Tài chính. Riêng quyết toán năm, Bộ Tài chính chủ trì thẩm định báo cáo quyết toán năm về nguồn thu và sử dụng viện trợ của các Bộ, ngành TW cùng với việc thẩm tra quyết toán kinh phí Hành chính sự nghiệp (HCSN) cho Chương trình NS&VSMTNT do Bộ, ngành TW quản lý. Căn cứ vào biên bản thẩm tra quyết toán nguồn vốn viện trợ, Bộ Tài chính sẽ thông báo duyệt tổng số quyết toán chi HCSN của chương trình trong đó có quyết toán nguồn viện trợ. Vốn đối ứng của các dự án viện trợ được quyết toán như quyết toán nguồn NSNN cấp theo Luật NSNN. Sở Tài chính các tỉnh, thành phố và phòng Tài chính các quận, huyện, thị xã chủ trì thẩm tra quyết toán thu và sử dụng viện trợ hàng năm của các đơn vị thuộc Phòng Tài chính quản lý cùng với việc thẩm tra quyết toán kinh phí HCSN.
Quyết toán dự án viện trợ:
- Khi dự án viện trợ kết thúc đã quyết toán với nhà tài trợ mà vẫn còn thừa tiền, chủ dự án báo cáo phương án xử lý với cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính cùng cấp.
- Cùng với việc gửi báo cáo quyết toán dự án, chủ dự án phải báo cáo xử lý tài sản, công nợ với cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính cùng cấp.
c. Phương án 3:
Nguồn vốn tín dụng ODA cùng với NSNN chuyển cho Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) để cho vay theo các mục tiêu của chương trình.
Đối với vốn ODA không yêu cầu hoàn trả mang tính chất xây dựng cơ bản (xây dựng các công trình cấp nước, hố xí…) được chuyển qua hệ thống Kho bạc nhà nước để cấp phát và kiểm soát chi như đối với nguồn vốn đối ứng được NSNN cấp phát cho chương trình.
Riêng khoản thanh toán trực tiếp cho các công ty tư vấn quốc tế, các chuyên gia quốc tế hoặc một số mua sắm quốc tế khác do Nhà tài trợ trực tiếp tiến hành mua sắm do Nhà tài trợ trực tiếp quản lý.
Nguốn vốn ODA không yêu cầu hoàn trả nhưng không có tính chất xây dựng cơ bản như: chi quản lý dự án, chi truyền thông, chi đào tạo, hội thảo, tập huấn, …sẽ do nhà tài trợ chuyển qua tài khoản của Bộ Tài chính mở tại ngân hàng thương mại. Căn cứ hiệp định, thoả thuận, văn kiện chương trình/dự án, kế hoạch hoạt động và kế hoạch ngân sách được Ban Chủ nhiệm chương trình duyệt và yêu cầu giải ngân hàng quý của Ban quản lý dự án Trung ương, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền tới BQLDA TW, BQLDA cấp tỉnh, BQLDA cấp huyện theo kế hoạch quý hoặc thanh toán trực tiếp cho Nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo yêu cầu của các BQLDA.
Đối với vốn ODA không yêu cầu hoàn trả nhưng không có tính chất xây dựng cơ bản, các chế độ và định mức chi tiêu sẽ do Chính phủ thoả thuận với các nhà tài trợ. Việc kiểm soát chi sẽ do các BQLDA tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ các thoả thuận giữa Chính phủ với các nhà tài trợ và các quy định quản lý tài chính hiện hành. Định kỳ hàng năm, các nhà tài trợ có thể tiến hành kiểm toán độc lập việc chi tiêu vốn ODA, Bộ Tài chính sẽ sử dụng kết quả kiểm toán này để đánh giá việc chi tiêu của các BQLDA và có biện pháp điều chỉnh cần thiết việc chuyển tiền cho kỳ sau.
V.2.5. Phương thức thanh quyết toán và kiểm soát chi
Đối với vốn viện trợ, kiểm soát chi nhằm đảm bảo chi tiêu của chương trình phù hợp với Hiệp định viện trợ được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ.
Đối với vốn ngân sách nhà nước, chi trả, thanh toán và kiểm soát thực hiện theo các quy định hiện hành của Chính phủ.
V.2.6. Thuế
Miễn giảm thuế kinh doanh có thời hạn, giảm thuế đất cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư làm dịch vụ cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn.
V.2.7. Trợ cấp
Trong thời điểm trước mắt, các hộ gia đình được xác nhận là hộ nghèo hoặc rất nghèo, các hộ gia đình thuộc diện chính sách theo chuẩn của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội chưa có công trình cấp nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh sẽ được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho xây dựng các công trình này. Đối với những địa bàn đặc biệt khó khăn về nguồn nước, những nơi thường xuyên hạn hán, vùng nhiễm mặn, vùng núi cao, vùng nước bị ô nhiễm, vùng thường xuyên bị lũ lụt, vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới, vùng đông dân cư có mật độ dân số cao sẽ được xem xét để hỗ trợ một phần kinh phí phát triển các công trình cấp nước sạch đặc biệt là các loại hình công nghệ cấp nước chung cho nhiều hộ gia đình.
Hiện nay tiêu chí trợ cấp và định mức trợ cấp còn thiếu sự thống nhất giữa các tổ chức quốc tế với nhà nước, giữa các tổ chức quốc tế với nhau, do đó trong năm đầu thực hiện chương trình cần xây dựng tiêu chí trợ cấp và định mức trợ cấp thống nhất nhằm áp dụng chung cho cả các nhà tài trợ và nhà nước.
V.3. Giải pháp về công nghệ cấp nước sạch, chất lượng nước và vệ sinh nông thôn
Giải pháp về công nghệ cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn là chìa khoá của việc phát huy hiệu quả khai thác, sử dụng công trình, nó quyết định đến cả vấn đề tài chính, nguồn lực để vận hành và bảo dưỡng. Công nghệ có tác động hài hoà mối tương quan giữa giá trị công trình, thành phẩm nước sạch và khả năng chi trả của người dân. Vì vậy, cần tập trung đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Đối với xây dựng và quản lý các công trình cấp nước và vệ sinh: Các cơ quan quản lý nhà nước sẽ không tham gia vào việc kinh doanh xây dựng công trình cấp nước sạch và vệ sinh, công việc này sẽ giao cho các nhà thầu là doanh nghiệp nhà nước hoặc Công ty tư nhân đảm nhận thông qua đấu thầu cạnh tranh.
V.3.1. Giải pháp về công nghệ cấp nước, quản lý các công trình cấp nước và chất lượng nước
Việc thực hiện giai đoạn I (1999-2005), Chương trình đã sử dụng và phát huy hiệu quả các loại nguồn nước hiện có trên địa bàn cả nước như nước mưa, nước ngầm, nước mặt. Đã đa dạng hoá các loại hình công nghệ cấp nước thích hợp, đồng thời kết hợp giữa các loại hình công nghệ gồm cấp nước nhỏ lẻ: Giếng đào, giếng khoan, lu bể chứa nước mưa; Cấp nước tập trung: Hệ thống cấp nước tự chảy, Hệ thống cấp nước sử dụng bơm động lực, hệ cấp nước tập trung nhỏ (nối mạng).
Các loại hình công nghệ cấp nước trên hiện đang rất phù hợp và hiệu quả với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh tự nhiên với các vùng nông thôn Việt nam.
Dựa trên các kinh nghiệm và thành quả đã thu được trong giai đoạn 1999 – 2005, trong giai đoạn từ 2005 đến 2010, phương thức tiếp cận cho giải pháp công nghệ - kỹ thuật cấp nước sạch nông thôn sẽ là đa dạng hóa các loại hình công nghệ phù hợp với điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội của mỗi vùng nông thôn, đảm bảo nguyên tắc bền vững. Trong đó, ưu tiên cấp nước tập trung cho những vùng dân cư đông, tập trung; tận dụng các công trình cấp nước hiện có để nâng cấp, mở rộng, đồng thời tìm kiếm các nguồn nước ổn định cho các vùng đặc biệt khó khăn như vùng thường xuyên hạn hán, lũ lụt, vùng núi cao, hải đảo; khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn nước bằng các loại hình công nghệ phù hợp, nâng cao chất lượng nước bằng áp dụng và chuyển giao nhiều công nghệ mới...
Cụ thể như sau:
· Phục hồi, nâng cấp, cải tạo và mở rộng các công trình cấp nước hiện có:
- Trước mắt cần kiểm tra, đánh giá đầy đủ hiệu quả sử dụng của các công trình cấp nước đã được xây dựng, từ đó có kế hoạch cụ thể nhằm phục hồi, cải tạo, duy trì hoạt động của các công trình này. Đồng thời, từng bước nâng cấp công nghệ (hoặc thay đổi công nghệ), mở rộng công trình, phát huy tối đa công xuất thiết kế nhằm phục vụ cấp nước cho người dân được nhiều nhất.
- Có kế hoạch kiểm kê, đánh giá, phân loại các giếng khoan đường kính nhỏ theo kiểu UNICEF ở 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long để đề xuất biện pháp sử dụng thích hợp. Trước mắt, sử dụng các giếng còn đảm bảo chất lượng (bao gồm chất lượng giếng và chất lượng nước) nối mạng bơm dẫn đến trạm xử lý làm sạch nước và phân phối bằng đường ống phục vụ cho các cụm dân cư từ 10 – 50 hộ hoặc nhiều hơn phù hợp với khả năng khai thác cho phép.
· Tiếp tục nghiên cứu và đầu tư vào các mô hình dự án cấp nước thí điểm để triển khai cho từng vùng và nhân rộng ở những vùng có điều kiện tương tự trên toàn quốc:
- Rà soát lại các mô hình, dự án đã được ứng dụng thí điểm trong giai đoạn 1999 – 2005; có kế hoạch tổng kết, phổ biến nhân rộng.
- Giai đoạn 2006 – 2010 cần tập trung nghiên cứu, thí điểm các mô hình công nghệ cấp nước sạch nông thôn phù hợp với các vùng đặc thù, như: Công nghệ, kỹ thuật cấp nước cho các vùng khó khăn: vùng núi cao, vùng đá castơ bằng công nghệ xây hồ thu nước, giữ nước, trữ nước quy mô vừa và nhỏ cấp nước cho cụm dân cư.
- Tiếp tục nghiên cứu ứng dụng công nghệ cấp nước cho vùng lũ lụt, vùng bị ô nhiễm phèn tại các vùng đồng bằng, đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
- Nghiên cứu, ứng dụng thí điểm về công nghệ kỹ thuật cấp nước và xử lý nước cho các vùng Duyên hải, vùng hải đảo, vùng nguồn nước bị nhiễm mặn.
- Công nghệ xử lý nước mặt bằng trạm cấp nước nổi, tự hành cấp nước cho các vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, vùng dân cư vạn đò, vùng nhiều kênh rạch.
- Công nghệ xử lý nguồn nước nhiễm mặn sử dụng ánh nắng mặt trời bốc hơi bằng gương kính để thu nước ngọt phục vụ cho ăn, uống ở các tỉnh Duyên hải Miền trung, vùng hải đảo.
- Thí điểm sử dụng vật liệu vải Polime, contak… làm túi chứa nước cấp nước cho mùa khô hạn thay thế các bể, lu chứa nước cho vùng cao, vùng lũ lụt, vùng duyên hải miền trung, hải đảo.
- Nghiên cứu tiếp thu việc ứng dụng thí điểm công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại cho các công trình cấp nước tập trung ở các vùng đông bằng.
- Tiếp tục nghiên cứu và phát triển sản xuất nguyên vật liệu, thiết bị cấp nước và vệ sinh trong nước, giảm giá thành, tạo việc làm cho người dân.
- Rà soát, hoàn chỉnh các tài liệu hướng dẫn về công nghệ, kỹ thuật; tổ chức phổ biến rộng rãi các tài liệu này đến tận cơ sở.
· Sử dụng tổng hợp đa mục đích tài nguyên nước:
Tận dụng khai thác hợp lý các nguồn nước của các công trình phục vụ cấp nước cho các mục đích khác, nguồn nước tại hơn 750 hồ chứa lớn và trung bình và hơn 10.000 hồ nhỏ cùng các công trình thủy nông, kênh mương dẫn hiện có để làm nguồn xử lý nước phục vụ cho ăn uống và sinh hoạt.
· Áp dụng công nghệ thích hợp trên cơ sở ưu tiên ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong cấp nước, duy trì công nghệ truyền thống phù hợp:
- Phát triển công nghệ cấp nước tiên tiến với các quy mô khác nhau, mở rộng tối đa cấp nước đến hộ gia đình qua đồng hồ đo nước, đặc biệt là tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Từng bước hạn chế việc phát triển các công trình cấp nước phân tán nhỏ lẻ ở các vùng đồng bằng.
- Xây dựng các bể chứa, lu chứa nước mưa ở vùng núi cao, núi đá khó khăn các nguồn nước ngầm, nước mặt.
- Chú trọng các biện pháp xử lý nước với quy trình khác nhau đảm bảo nâng cao chất lượng đặc biệt là các vùng khó khăn như núi cao, vùng bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, nhiễm Asen, nhiễm kim loại, vùng nguồn nước bị ô nhiễm nặng, vùng ngập lụt, hạn hán.
Các loại công nghệ cấp nước:
· Công nghệ cấp nước nhỏ lẻ
Các loại công nghệ cấp nước nhỏ lẻ bao gồm:
- Giếng đào: cấp nước cho từng hộ, cho từng cụm hộ gia đình hoặc cụm dân cư. Trong tình hình hiện nay ở những vùng nguồn nước mặt hoặc nước ngầm tầng nông bị ô nhiễm nặng không áp dụng loại hình này để khai thác nước cho ăn uống.
- Bể chứa, lu chứa nước: áp dụng cho những vùng dân cư thưa thớt không có điều kiện cấp nước tập trung, nguồn nước mặt và nước ngầm khan hiếm như vùng núi cao, vùng núi đá Castơ, hải đảo, vùng ven biển nguồn nước bị nhiễm mặn, vùng lũ lụt, những nơi không có đủ điều kiện cấp nước tập trung, những nơi dân cư thưa thớt…
- Giếng khoan: Hạn chế tối đa việc phát triển giếng khoan hộ gia đình, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Các giếng khoan không đảm bảo chất lượng phải sớm được lấp để tránh làm ô nhiễm nguồn nước ngầm.
· Cấp nước tập trung
Cấp nước tập trung là một giải pháp cấp nước hoàn chỉnh, đảm bảo chất lượng và khối lượng nước, do đó ở những vùng có điều kiện nguồn nước dồi dào, địa hình bằng phẳng, dân cư tập trung, kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao thì ưu tiên phát triển loại hình này nhằm nâng tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước từ các loại hình công nghệ cấp nước tập trung lên khoảng 35% vào năm 2010.
Các loại hình công nghệ cấp nước tập trung gồm có:
- Cấp nước tự chảy: phù hợp với vùng cao, vùng núi. Loại hình công nghệ này khai thác nguồn nước mạch lộ hoặc nước suối ở vị trí cao hơn khu vực sử dụng nước.
- Hệ thống cấp nước sử dụng bơm động lực: nhằm khai thác nguồn nước ngầm hoặc nước mặt và áp dụng đối với vùng đồng bằng đông dân cư.
- Hệ cấp nước tập trung quy mô nhỏ: tậndụng giếng khoan đường kính nhỏ, giếng đào, thay bơm tay bằng lắp bơm điện đưa lên tháp nước có thể tích nhỏ, độ cao từ 5 – 7m, dùng đường ống dẫn nước đến hộ gia đình, có lắp đồng hồ đo nước phục vụ khoảng 50 – 100 hộ.
Tổ chức xây dựng, quản lý và khai thác các công trình cấp nước:
Việc triển khai xây dựng các công trình cấp nước sạch phải đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công khai, người dân được tham gia ngay từ khâu lập kế hoạch đầu tư, chuẩn bị đầu tư, lựa chọn công nghệ và tham gia giám sát thực hiện xây dựng công trình.
Đối với các công trình cấp nước tập trung: Phương thức quản lý và chủ sở hữu công trình cấp nước tập trung sau xây dựng phải được xác định ngay từ khi lập dự án và là một điều kiện bắt buộc để phê duyệt dự án. Hiện nay đang tồn tại khá nhiều mô hình quản lý khai thác công trình cấp nước tập trung khác nhau. Do đó, trong năm 2006, phải tổ chức đánh giá đầy đủ về các mô hình quản lý hiện nay để đưa ra được mô hình quản lý phù hợp với các quy mô của các loại hình cấp nước khác nhau. Đối với các công trình hiện đang hoạt động kém hiệu quả cần đưa ra lộ trình chuyển đổi phương thức quản lý và sở hữu. Bên cạnh đó, giá tiêu thụ nước sạch cần phải theo nguyên tắc tính đúng, tính đủ các chi phí sản xuất, đảm bảo cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tự chủ về tài chính trong hoạt động kinh doanh.
Với các công trình cấp nước nhỏ lẻ, chủ sở hữu là tư nhân (gia đình) tự tổ chức xây dựng và quản lý. Tuy nhiên, nhà nước cần hướng dẫn công nghệ, kỹ thuật và quy định trong việc hoạt động đảm bảo việc khai thác nguồn nước và bảo vệ môi trường.
Tiêu chuẩn chất lượng nước:
Công tác quản lý, đánh giá giám sát chất lượng nước sạch nông thôn trong giai đoạn 2006 – 2010 cần phải được quan tâm đặc biệt để đảm bảo kết quả đạt được mang tính bền vững. Trong giai đoạn trước mắt, áp dụng các tiêu chí và quy trình giám sát, đánh giá tiêu chuẩn vệ sinh nước sạch nông thôn theo Quyết định số số 09/ 2005/QĐ/BYT đối với các công trình cấp nước có công suất phục vụ dưới 500 người. Đối với các công trình có công suất lớn hơn 500 người tạm thời áp dụng tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống theo Quyết định số 1329/2002/QĐ BYT của Bộ Y tế ban hành.
Tuy nhiên, để phù hợp với thực tế phát triển kinh tế, xã hội và khả năng đáp ứng về kỹ thuật và trình độ quản lý, trong năm 2006 – 2007, cần xây dựng và ban hành bộ Tiêu chuẩn Quốc gia chất lượng nước sạch thống nhất chung cho các loại hình cấp nước phục vụ cho ăn, uống và sinh hoạt ở nông thôn.
V.3.2. Công nghệ nhà tiêu hộ gia đình, vệ sinh trường học và vệ sinh công cộng
Chương trình Mục tiêu Quốc gia Nước sạch và VSMT giai đoạn 1998 – 2005 đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực cấp nước nhưng lĩnh vực vệ sinh môi trường kết quả đạt được chưa tương xứng. Chất lượng xây dựng, tình trạng sử dụng nhà tiêu thực tế ở nhiều nơi còn kém, một số trường hợp chủng loại nhà tiêu được lựa chọn chưa phù hợp với quy mô sử dụng, do đó đòi hỏi phải có các biện pháp thích hợp và hiệu quả để đạt mục tiêu chương trình đã đề ra.
Trong những năm tới, việc lựa chọn và phát triển các loại hình nhà tiêu phù hợp cho hộ gia đình, trường học, nơi công cộng phải dựa vào nhu cầu của cộng đồng và địa phương trên cơ sở có sự tư vấn về kỹ thuật của nhà nước. Cộng đồng tham gia ngay từ giai đoạn lập kế hoạch và quyết định loại hình nhà tiêu nào sẽ được lựa chọn, tham gia vào tất cả các khâu xây dựng, giám sát thi công và quản lý sau xây dựng. Đồng thời chú trọng thực hiện các giải pháp sau:
· Thống nhất thiết kế và sản xuất các cấu kiện vệ sinh bằng các loại vật liệu, phụ kiện khác nhau để đảm bảo kỹ thuật
- Để tránh những sai lệch về kỹ thuật trong việc xây dựng các công trình nhà vệ sinh, cần thiết phải triển khai nghiên cứu và hỗ trợ sản xuất hàng loạt các cấu kiện vệ sinh bằng nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau theo đúng quy chuẩn thiết kế kỹ thuật để cung cấp cho địa phương. Huy động các thành phần kinh tế tham gia sản xuất và cung ứng các cấu kiện vệ sinh, xây dựng các công trình vệ sinh, hạn chế độc quyền, tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, giá thành cạnh tranh...
- Thiết bị vệ sinh của loại nhà tiêu tự hoại: bệ xí (bệ bệt, bệ xổm), cút L, ống PVC nhiều kích cỡ, các thiết bị phụ kiện kèm theo khác...đã có nhiều công ty của Việt Nam và Công ty liên doanh sảnh xuất và cung ứng theo nhu cầu thị trường, do vậy, cần hỗ trợ quảng bá các sản phẩm này và đẩy mạnh việc áp dụng.
- Nghiên cứu sản xuất hàng loạt bệ xí của nhà tiêu hai ngăn và đào cải tiến bằng các vật liệu bền, đảm bảo vệ sinh và có tính thẩm mỹ cao (Composite, sứ tráng men...) đúng tiêu chuẩn kỹ thuật để giải quyết những sai sót kỹ thuật và tiện lợi trong thi công, hạ giá thành, huy động được nhiều thành phần tham gia.
· Đầu tư nghiên cứu thí điểm các mô hình vệ sinh phù hợp cho các vùng ngập lụt, hộ gia đình, trường học, trạm xá, chợ nông thôn, ủy ban nhân dân các xã.
- Nghiên cứu chuẩn hoá thiết kế đối với các loại nhà tiêu HVS hộ gia đình.
- Nghiên cứu ứng dụng sản xuất các loại vật liệu composite, sứ, bê tông đúc sẵn…và các vật liệu khác theo đúng tiêu chuẩn thiết kế phù hợp với khu vực, địa phương.
- Nghiên cứu mô hình xử lý phân, nước tiểu (kỹ thuật ủ, sử dụng năng lượng mặt trời, biogas, công nghệ sinh học, giun đất...) hợp vệ sinh, giá thành hạ.
- Nghiên cứu các hình thức tổ chức, sử dụng bảo quản và quy trình kiểm tra giám sát nghiệm thu công trình.
- Mô hình thí điểm về xây dựng, sử dụng và bảo quản nhà tiêu HVS trong trường học (các cấp) phù hợp với số lượng học sinh và lứa tuổi.
- Mô hình thí điểm về xây dựng, sử dụng và bảo quản nhà tiêu HVS cho trạm xá xã, UBND xã và chợ (chợ thường xuyên, chợ họp phiên).
· Thành lập và tổ chức các đội kỹ thuật chuyên xây dựng công trình vệ sinh tại các tuyến huyện, xã, thôn.
Nhằm mục tiêu hướng dẫn cho cộng đồng xây dựng các công trình nhà tiêu đúng kỹ thuật, đảm bảo chất lượng, đồng thời hỗ trợ công tác giám sát sử dụng tại cộng đồng.
Các loại nhà tiêu hợp vệ sinh:
Hiện nay, có nhiều loại hình nhà tiêu hộ gia đình đang được áp dụng tại các vùng nông thôn Việt Nam, tuy nhiên một số không còn phù hợp do không đáp ứng được các nhu cầu về đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường. Do đó, từ kết quả thực hiện chương trình giai đoạn 1998-2005 trong thời gian tới sẽ đẩy mạnh áp dụng 3 loại hình nhà tiêu là: nhà tiêu tự hoại, nhà tiêu hai ngăn ủ phân tại chỗ/nhà tiêu sinh thái và nhà tiêu chìm có ống thông hơi. Trong đó, những nơi thuận lợi về nguồn nước sẽ xây dựng loại nhà tiêu tự hoại, những nơi không thuận lợi về nguồn nước và điều kiện địa lý khó khăn khuyến khích xây dựng loại nhà tiêu sinh thái và nhà tiêu chìm có ống thông hơi. Cụ thể như sau:
- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: chủ yếu xây dựng nhà tiêu tự hoại.
- Vùng Đông bằng Sông Hồng và miền Trung: xây dựng nhà tiêu sinh thái (đối với những hộ có sử dụng phân bắc), nhà tiêu tự hoại.
- Vùng Trung du và miền núi: xây dựng nhà tiêu sinh thái và nhà tiêu chìm có ống thông hơi.
- Vùng ven biển xây dựng nhà tiêu tự hoại và nhà tiêu sinh thái.
Nhà tiêu dùng cho trường học và các cơ sở công cộng như chợ, trụ sở uỷ ban xã…khuyến khích áp dụng loại nhà tiêu tự hoại hoặc hai ngăn ủ phân tại chỗ.
Các yêu cầu đối với nhà tiêu hợp vệ sinh:
- Cô lập được phân người, làm cho phân tươi hoặc phân chưa an toàn không thể tiếp xúc được với người, động vật, côn trùng và vật nuôi.
- Tiêu diệt được các tác nhân gây bệnh có trong phân và không làm ô nhiễm môi trường xung quanh.
V.3.3. Công nghệ xử lý chất thải làng nghề và chất thải chăn nuôi
Công nghệ đóng vai trò rất quan trọng để xử lý chất thải chăn nuôi cũng như làng nghề, vì thế trong những năm tới cần tiếp tục nghiên cứu để đưa ra nhiều loại hình công nghệ giúp người dân có nhiều loại hình phù hợp để lựa chọn, đồng thời nghiên cứu giảm giá thành công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi và làng nghề.
- Xử lý chất thải chăn nuôi hộ gia đình
- Đẩy mạnh áp dụng công nghệ Biogas để xử lý chất thải chăn nuôi.
Kinh nghiệm thực hiện chương trình trong giai đoạn qua cho thấy, Biogas là công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi có hiệu quả vừa xử lý các yếu tố gây ô nhiễm môi trường, hạn chế được các nguy cơ truyền bệnh vừa tạo ra khí để sử dụng đun nấu. Biogas có rất nhiều loại như: túi nilon, hằm hình trụ xây gạch nắp bê tông hoặc composit, hình cầu xây dựng bằng gạch... Nhìn chung mỗi loại hình biogas đều có ưu nhược điểm song cho đến nay công nghệ biogas xử lý chất thải chăn nuôi là ưu việt nhất. Điều kiện tiên quyết để biogas phát huy hiệu quả là phải xây dựng đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo kín, bền vững không dò khí và phải cung cấp tối thiểu 20 kg phân tươi trong 24 giờ.
Biogas có nhiều loại, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình và từng vùng mà áp dụng cho phù hợp. Dựa vào chất liệu làm biogas người ta phân ra 2 loại chính:
- Biogas bằng túi ni lon : Giá thành thấp, dễ xây dựng song hay bị thủng, rò khí, tốn diện tích, không bền, áp lực gas thấp nên hiệu suất đốt không cao. Mô hình này không khuyến khích áp dụng trong thời gian tới.
- Biogas xây bằng gạch: có nhiều hình thái khác nhau như hầm xây hình trụ nắp cố định bằng bê tông lưới thép hoặc composit hoặc loại hầm hình cầu... Mô hình này giá thành và kỹ thuật xây dựng đòi hỏi cao song ưu điểm là bền vững, tốn ít diện tích...
+Thúc đẩy xử lý chất thải chăn nuôi hộ gia đình bằng mẫu chuồng do Viện chăn nuôi bộ Nông nghiệp thiết kế.
Nguyên tắc chung là chuồng xây gạch có mái che nền cứng có độ nghiêng để dẫn nước thải. Gắn với chuồng là hố ủ phân và bể tử hoại 3 ngăn để xử lý nước thải. Cho đến nay mới có kiểu chuồng hợp vệ sinh do Viện chăn nuôi thiết kế song vận hành rất khó khăn vì hàng ngày phải hót phân cho vào hố ủ. Mô hình chuồng của Viện Chăn nuôi đã được triển khai thí điểm ở Hà tây, Nam định, Yên bái... nếu được vận hành tốt xử lý chất thải chăn nuôi có hiệu quả hạn chế các nguyên nhân gây ô nhiễm đồng thời tạo ra nguồn phân bón hữu cơ tốt và an toàn. Mô hình này phù hợp áp dụng cho vùng không ngập lụt, miền núi, vùng sử dụng phân bón cho cây trồng.
+Sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ nguyên liệu phân và rác thải gia đình. Quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh quy mô hộ gia đình đơn giản rẻ tiền phù hợp với tập quán ủ phân chuồng truyền thống của các hộ nông dân. Mô hình này vừa đảm bảo xử lý phân, rác thải vừa tạo ra nguồn phân bón hữu cơ vi sinh chất lượng tốt, phù hợp áp dụng cho vùng không ngập lụt, miền núi, vùng sử dụng phân bón cho cây trồng.
- Đối với việc xử lý chất thải làng nghề
Theo tính toán sơ bộ thì số vốn cần đầu tư sẽ rất lớn và khó có thể giải quyết được trong phạm vi Chương trình này. Phương án đề xuất là tập trung đầu tư xây dựng một số mô hình thí điểm xử lý chất thải cho các làng nghề chế biến thực phẩm, làng nghề dệt thủ công và làng nghề giấy sau đó tổ chức đánh giá và tuyên truyền phổ biến nhân rộng diện áp dụng. Các làng nghề xây dựng các các mô hình sau thí điểm sẽ được tạo điều kiện để vay vốn với thời hạn trả vốn hợp lý.
V.3.4.Công trình thí điểm
Trong giai đoạn 1999 – 2005 đã có hàng loạt mô hình công nghệ cấp nước và vệ sinh cũng như mô hình quản lý triển khai thực hiện đã được thí điểm, do đó trong năm 2006 cần tổ chức đánh giá lại các loại hình đã thí điểm để nhân rộng ra các địa bàn phù hợp.
Kinh nghiệm trong thời gian qua cũng cho thấy việc thí điểm nên tập trung ở một số địa bàn cụ thể sau đó tổ chức đánh giá và phổ biến, nhân rộng thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng là có hiệu quả.
Tùy theo yêu cầu và mục đích của thí điểm cần có phương án tổ chức xây dựng và quản lý cụ thể đảm bảo nguyên tắc:
- Có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, cơ quan thực hiện, cơ quan khoa học, các nhà khoa học và các địa phương (hưởng thụ dự án).
- Thí điểm phải gắn với sử dụng công trình.
- Có sự phân công theo dõi tổ chức đánh giá kết quả thí điểm, có kế hoạch phổ biến nhân rộng.
V.4. Giải pháp về Quy hoạch và Cơ chế quản lý kế hoạch chương trình
V.4.1. Quy hoạch
Trên cơ sở quy hoạch cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn hiện có, trong năm 2006 – 2007 cần tiến hành đánh giá, cập nhật, bổ sung quy hoạch, kế hoạch chi tiết về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn ở các địa bàn dân cư. Đưa việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thành một nhiệm vụ thường xuyên của công tác quản lý nhà nước.
V.4.2. Cơ chế quản lý kế hoạch chương trình
Thực trạng công tác kế hoạch đối với Chương trình mục tiêu quốc gia NS&VSMTNT trong mấy năm qua đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập kể cả quá trình lập kế hoạch, năng lực đội ngũ cán bộ và tổ chức… từ cấp xã lên đến cấp tỉnh. Thêm vào đó, việc phối hợp theo chiều dọc và chiều ngang trong quá trình xây dựng kế hoạch còn yếu, kế hoạch chưa thực sự đi từ nhu cầu thực tế của cơ sở, chưa thể hiện được nguyện vọng của người dân, chưa đi từ mục đích cần đạt được để xây dựng kế hoạch của chương trình.
Để khắc phục các tồn tại trên, cần đổi mới công tác xây dựng kế hoạch của Chương trình theo phương pháp kế hoạch hoá. Tăng cường việc phân cấp quản lý để đảm bảo rằng các tỉnh chủ động hơn trong việc lập kế hoạch, triển khai và quản lý các công trình cấp nước và vệ sinh nông thôn.
Việc xây dựng kế hoạch của Chương trình NS&VSMTNT được tiến hành theo lịch trình 5 năm và hàng năm và phải xuất phát từ cơ sở. Cụ thể như sau:
- Cấp xã tổng hợp nhu cầu từ các thôn, bản, có sự tham gia của người dân, của cộng đồng dân cư thụ hưởng chương trình và từ mục tiêu chính của chương trình về đầu tư xây dựng các công trình cấp nước, các công trình vệ sinh để lên kế hoạch về cấp nước sạch và VSMTNT của xã. Kế hoạch này phải được HĐND xã thông qua và sau đó gửi cho UBND huyện.
- Cấp huyện tổng hợp kế hoạch cấp nước sạch và VSMTNT từ các xã trong huyện theo các mục tiêu, nhiệm vụ: số người dân được cấp nước sạch, số hộ có công trình hợp vệ sinh, số làng nghề được xử lý môi trường, số công trình cấp nước được đầu tư xây dựng mới, số nhà tiêu được xây mới (hoặc cải tạo) hợp vệ sinh; nhu cầu vốn đầu tư phát triển và sự nghiệp, nhu cầu vay vốn tín dụng; kế hoạch huy động nguồn lực của huyện cho Chương trình NS&VSMTNT... Kế hoạch của huyện phải được HĐND huyện thông qua và gửi UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT.
- Cấp tỉnh tổng hợp kế hoạch cấp nước sạch và VSMTNT từ các huyện trong tỉnh theo các mục tiêu, nhiệm vụ: số người dân được cấp nước sạch; số hộ có công trình hợp vệ sinh; số làng nghề được xử lý môi trường; số công trình cấp nước được đầu tư xây dựng mới; số công trình hố xí được xây mới (hoặc cải tạo) hợp vệ sinh; nhu cầu vốn đầu tư phát triển và sự nghiệp, nhu cầu vay vốn tín dụng; kế hoạch huy động nguồn lực tại địa phương. Kế hoạch của tỉnh phải được HĐND tỉnh thông qua và gửi Thủ tướng Chính phủ, cơ quan quản lý chương trình là Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính.
- Bộ Nông nghiệp và PTNT tổng hợp kế hoạch của chương trình từ 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và kế hoạch cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn của các Bộ, ngành có liên quan ở cấp Trung ương gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính.
Giao chỉ tiêu kế hoạch của chương trình:
Việc giao chỉ tiêu kế hoạch năm 2006 và các năm tiếp theo của chương trình vẫn thực hiện theo cơ chế như kế hoạch năm 2005, cụ thể là: Thủ tướng chính phủ giao chỉ tiêu tổng kinh phí của các dự án do địa phương thực hiện cho các địa phương; kinh phí của CTMTQG do cơ quan quản lý chương trình và cơ quan tham gia thực hiện chương trình thực hiện.
V.5. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải đáp ứng được với cách tiếp cận dựa theo nhu cầu và phân cấp quản lý, thực thi cho các cấp. Có nghĩa là ngoài nhiệm vụ đào tạo, việc phát triển nguồn nhân lực còn bao gồm việc tuyển mộ nhân viên và phát triển nghề nghiệp; đồng thời, dựa trên việc cập nhật kế hoạch tổ chức và phát triển nguồn nhân lực.
Việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực được thực hiện đối với mọi cấp và với tất cả cán bộ nhân viên trong lĩnh vực cấp nước và vệ sinh môi trường như: cán bộ chỉ đạo, cán bộ quản lý, lập kế hoạch, chương trình, kỹ thuật, tài chính, tín dụng, đặc biệt là đào tạo cho nhân viên quản lý và công nhân vận hành, sửa chữa, bảo dưỡng công trình cấp nước sạch và vệ sinh. Việc đào tạo cần chú trọng đến việc dạy thực hành hơn là lý thuyết đơn thuần; ưu tiên đào tạo thợ, cán bộ bảo trì, vận hành là người địa phương để tạo công ăn việc làm và phát triển nghề nghiệp cho người dân.
Hiện nay bộ máy tổ chức về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã được thiết lập ở cấp tỉnh và Trung trương. Tuy nhiên, cần ưu tiên phát triển nguồn nhân lực ở cấp huyện, xã để thực hiện tốt hơn vai trò mới của mình vì cấp huyện và đặc biệt là cấp xã không có cán bộ chuyên trách về công tác này.
Để đáp ứng tốt công tác đào tạo, nhà nước cần đầu tư thêm các trang thiết bị, nâng cao trình độ giảng dạy ở các cơ sở đào tạo hiện có ở các cấp trong lĩnh vực cấp nước và vệ sinh môi trường, bao gồm: các cơ sở đào tạo bậc đại học, trung học chuyên nghiệp và trung tâm dạy nghề của các Bộ: Bộ NN&PTNT, Bộ xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội, Bộ Y tế…Trong năm đầu thực hiện Chương trình, sẽ lựa chọn một số tỉnh nhằm đánh giá tinh thần sẵn sàng và năng lực áp dụng các nguyên tắc và chiến lược lập kế hoạch thực thi Chương trình. Đồng thời các cấp, các ban ngành cần tiến hành đánh giá về nhu cầu đào tạo; lập kế hoạch đào tạo nâng cao năng lực cho các cán bộ thực hiện để sử dụng một cách có hiệu quả nguồn ngân sách dành riêng cho hoạt động này..
Nội dung đào tạo sẽ căn cứ theo nhu cầu thực tế song cần lưu ý tập trung vào một số lĩnh vực sau:
- Nâng cao năng lực lập kế hoạch, quản lý, giám sát, đánh giá cho cán bộ;
- Nâng cao năng lực về kỹ thuật xây dựng các công trình cấp nước và vệ sinh tại cộng đồng;
- Kỹ năng truyền thông;
- Giám sát đánh giá dự án.
Nhà nước khuyến khích các các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ kỹ thuật, tài trợ cho công tác đào tạo để nâng cao năng lực đối với việc lập kế hoạch, quản lý, triển khai thực thi và đánh giá Chương trình… tại tất cả các cấp.
Nguồn tin: Trung tâm Nước SH và VSMT nông thôn Thái Nguyên